Cơ chế phát triển sạch và thực hiện các dự án phát triển sạch ở Việt Nam
Nhằm tăng cường cơ sở pháp lý về trách nhiệm thực hiện UNFCCC, Hội nghị các Bên lần thứ 3 của UNFCCC tại Kyoto, Nhật Bản, tháng 12/1997 đã thông qua Nghị định thư Kyoto (KP). KP chính thức có hiệu lực thi hành từ tháng 2 năm 2005. Theo KP, Bên nước thuộc Phụ lục I của UNFCCC phải thực hiện việc cắt giảm phát thải KNK định lượng ở mức thấp hơn mức phát thải năm 1990 khoảng 5,2% trong thời kỳ cam kết đầu tiên của KP (2008-2012). KP đã đưa ra các cơ chế mềm dẻo để các nước phát triển có thể vận dụng để thực hiện các cam kết giảm phát thải khí nhà kính định lượng của mình với các chi phí thấp. Cơ chế phát triển sạch (CDM) là một trong 3 có chế của KP.
Cơ chế phát triển sạch
Cơ chế phát triển sạch được quy định tại Điều 12 của KP. CDM cho phép các nước phát triển thực hiện các dự án giảm phát thải các khí nhà kính với chi phí thấp, đồng thời tạo điều kiện để các nước đang phát triển tiếp nhận các công nghệ thân thiện với môi trường từ các nước phát triển, phục vụ phát triển bền vững đất nước.
CDM là một cơ chế đối tác đầu tư giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. CDM cho phép và khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước và tư nhân của các nước phát triển đầu tư, thực hiện các dự án giảm phát thải các KNK tại các nước đang phát triển và nhận được Chứng chỉ giảm phát thải KNK được chứng nhận (CER). CER được tính vào chỉ tiêu giảm phát thải các KNK của các nước phát triển, giúp các nước này thực hiện cam kết giảm phát thải các KNK. Một CER bằng một tấn khí CO 2tương đương.
Tại các nước đang phát triển, mọi tổ chức nhà nước và tổ chức tư nhân hoạt động trong khuôn khổ pháp luật được quyền tham gia xây dựng và thực hiện các dự án CDM. Nhìn chung, những lợi ích chính do CDM mang lại bao gồm:
Đối với các nước đang phát triển, thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài; phát triển nguồn nhân lực; tạo thêm việc làm; tiếp nhận công nghệ mới thân thiện với môi trường, góp phần giảm phát thải các KNK; hỗ trợ các chương trình, kế hoạch phát triển bền vững của trung ương, ngành và địa phương.
Đối với các nước phát triển, thực hiện cam kết giảm phát thải KNK định lượng với chi phí thấp thông qua việc thu được các CER từ dự án CDM cũng như có thêm cơ hội đầu tư mới tại các nước đang phát triển.
Những lĩnh vực tiềm năng có thể xây dựng dự án CDM: Sản xuất năng lượng; chuyển tải năng lượng; tiêu thụ năng lượng; nông nghiệp; xử lý, loại bỏ rác thải; trồng rừng và tái tạo rừng; công nghiệp hóa chất; công nghiệp chế tạo; xây dựng; giao thông vận tải; khai thác mỏ hoặc khai khoáng; sản xuất kim loại; phát thải từ nhiên liệu (nhiên liệu rắn, dầu và khí); phát thải từ sản xuất và tiêu thụ Halocarbons và Sulphur hexafluoride và sử dụng dung môi.
Theo quy định quốc tế, để tham gia các hoạt động CDM, các nước phải đáp ứng 03 yêu cầu cơ bản là phê chuẩn KP, chỉ định cơ quan thẩm quyền trong nước về CDM (DNA) và tự nguyện tham gia CDM.
Việt Nam tham gia CDM
Chính phủ Việt Nam đã ký KP ngày 03/12/1998 và phê chuẩn KP ngày 25/9/2002. Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (KTTVBĐKH) thuộc Bộ TN&MT được giao là Cơ quan thẩm quyền trong nước về CDM (DNA) của Việt Nam . Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện CDM, Chính phủ đã ban hành: Chỉ thị số 35/2005/CT-TTg về việc tổ chức thực hiện KP thuộc UNFCCC; Quyết định số 47/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện KP thuộc UNFCCC giai đoạn 2007-2010; Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo CDM.
Trong những năm gần đây, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các hoạt động CDM và thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại nước ta, Bộ TN&MT đã ban hành Thông tư số 12/2010/TT-BTNMT quy định việc xây dựng, cấp Thư xác nhận, cấp Thư phê duyệt dự án theo CDM trong khuôn khổ KP (thay thế Thông tư số 10/2006/TT-BTNMT hướng dẫn xây dựng dự án CDM trong khuôn khổ KP); Bộ Tài chính và Bộ TN&MT cũng ban hành Thông tư liên tịch số 58/2008/TTLT-BTC-BTNMT hướng dẫn thực hiện một số Điều của Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo CDM và Thông tư liên tịch số 204/2010/LLTL-BTC-BTNMT sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư liên tịch số 58/2008/ TTLT-BTC-BTNMT.
Được Chính phủ giao là cơ quan đầu mối của Chính phủ Việt Nam tham gia và thực hiện UNFCCC và KP, Bộ TN&MT đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện UNFCCC và KP do Thứ trưởng Bộ TN&MT làm Trưởng ban với sự tham gia của đại diện 14 bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan. Ngoài vấn đề về BĐKH, các thành viên Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ xem xét, đánh giá ý tưởng Dự án (PIN), Văn kiện Thiết kế Dự án (PDD) và Văn kiện Thiết kế Chương trình (PoA-DD) theo CDM do các bên thực hiện dự án xây dựng.
Kết quả đạt được
Tính đến cuối tháng 02/2011, Việt Nam đã có 52 dự án được Ban Chấp hành quốc tế về CDM (EB) công nhận là dự án CDM với tổng lượng KNK giảm được thông qua các dự án này vào khoảng 24,1 triệu tấn CO2 tương đương. Với kết quả đạt được nêu trên, nước ta được xếp thứ 7 trên thế giới về số lượng dự án CDM được EB công nhận và xếp thứ 8 trên thế giới (thứ nhất Đông Nam Á) về lượng CER được EB cấp cho các nước thực hiện dự án CDM với tổng lượng CER được cấp là 4.511.198 chứng chỉ.
Định hướng phát triển các hoạt động CDM trong thời gian tới
Việt Nam đã thực hiện nghiên cứu chiến lược quốc gia về CDM trong thời gian qua và đã được xác định là một trong các nước có tiềm năng về xây dựng và thực hiện các dự án CDM, đặc biệt là các dự án CDM trong lĩnh vực năng lượng. Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg), Bộ TN&MT đang phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan, địa phương có liên quan xây dựng, thực hiện các chương trình, dự án giảm nhẹ phát thải KNK nói chung và các dự án CDM nói riêng nhằm tận dụng cơ hội phát triển nền kinh tế theo hướng các-bon thấp cũng như tích cực cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ BĐKH, bảo vệ hệ thống khí hậu Trái Đất.
Để đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động CDM tại nước ta phục vụ công cuộc phát triển bền vững đất nước, trong thời gian tới Bộ TN&MT sẽ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương thực hiện các hoạt động chính liên quan đến CDM sau:
Xây dựng và thực hiện các chương trình tuyên truyền, phổ biến thông tin nhằm nâng cao nhận thực cộng đồng về CDM cũng như tăng cường năng lực cho các cơ quan, đơn vị, khối doanh nghiệp ở trung ương và địa phương có tiềm năng tham gia các hoạt động CDM. Từng bước lồng ghép vấn đề CDM vào chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển của các bộ, ngành và địa phương. Nghiên cứu, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thu hút hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài vào dự án CDM tại Việt Nam và tạo hành lang pháp lý thuận lợi, khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp xây dựng và thực hiện dự án CDM. Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế về tài chính, chuyển giao công nghệ, kinh nghiêm, tăng cường năng lực để xây dựng, thực hiện dự án CDM.








