“Cơ chế cào bằng làm thui chột nhân tài”
“Theo ông Bảo, cơ chế bầu cử, tiến cử, cơ chế lựa chọn nhân tài cũng như cơ chế chính sách cán bộ của chúng ta chưa tốt. Lòng tin của dân đối với Đảng giảm sút một phần, chính vì những lãnh đạo chủ chốt của chúng ta chưa phải những người tài năng, chưa biết trọng dụng nhân tài.
Trong thế giới toàn cầu hóa, chưa bao giờ, cuộc cạnh tranh chiếm lĩnh "chất xám" lại căng thẳng và mang ý nghĩa sống còn như ngày nay. Sở hữu và sử dụng tốt lực lượng nhân tài là chìa khóa phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia.
Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố sáng tạo đóng vai trò tiên quyết. Cạnh tranh về kinh tế thực chất là cạnh tranh về nguồn nhân lực. Làm thế nào để không bị thất thế, chứ chưa nói tới chiếm ưu thế và giành thắng lợi, đang là câu hỏi đau đầu của rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Nhân tài được xem như bộ phận tinh hoa của nguồn nhân lực, là "chất xám tiêu biểu" để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, là "bộ mặt" của hệ thống giáo dục và nền khoa học công nghệ của mỗi quốc gia. Nhân tài chính là đầu tàu, là lực lượng tiên phong thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ai là nhân tài?
TSKH Nguyễn Trọng Bảo cho biết, về mặt khoa học có 3 loại nhân tài.
- Được đào tạo có hệ thống, có bằng cấp cao và có sáng tạo ra những giá trị mới, những công trình mới, có cống hiến cho xã hội.
- Không được đào tạo có hệ thống mà tự học, tự đào tạo là chính và tích luỹ được vốn tri thức rất rộng, rất sâu từ đó có những sáng tạo, cống hiến cho xã hội. Ví dụ như chủ tịch Hồ Chí Minh, Bill Gates...
- "Kỹ sư chân đất" không hề có bằng cấp nào cả. Ví dụ như Edison...
Ông Bảo đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố sáng tạo. Theo ông, đây là thành tố nổi bật để xác định: Ai là nhân tài?
Nhân tài khác với tài năng và khác với những người được đào tạo có học vị, học hàm cao là khả năng và mức độ sáng tạo. Ông kết luận: Nhân tài là người thông tuệ, giàu tính sáng tạo, có động cơ và lợi ích xã hội, cộng đồng và có một số phẩm chất nổi bật: giàu nghị lực, kiên trì tự học, tự đào tạo, biết phát hiện ra vấn đề mới, đam mê, dũng cảm tìm cách giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, từ đó có cống hiến nổi bật, xuất sắc cho nhân dân, cho xã hội, được cộng đồng thừa nhận, suy tôn.
GS. TSKH. NGND Phương Lưu cho rằng, người tài phải có đức và chính cái đức giúp cho tài năng phát triển. Chữ đức ở đây bao gồm lao động và trung thực. Ông liên hệ, giáo sư Hàn Quốc Hwang Woo Suk là một người tài, nhưng ông ta thiếu trung thực. Vì thế mà tài năng của ông ta không phát triển được.
Là người tài, anh phải lao động sáng tạo và tự học suốt đời. Người ta chỉ cần 20 năm để làm xong tiến sĩ khoa học. Tính lớp thì mới là lớp 20. Anh không thể cứ ngồi không, mài cái tiến sĩ khoa học ấy ra để sống và để bắt xã hội tôn vinh được.
Nhân tài phải được xác định qua thành quả lao động. Việc giám định bên cạnh hội đồng có uy tín phải có ý kiến của nhân dân. Trong việc đánh giá con người mà độc quyền là cực kỳ tai hại.
Nhận thức và cơ chế là rào cản lớn nhất
TSKH Nguyễn Trọng Bảo rất hào hứng khi nói về nghị quyết trung ương 10. Chưa bao giờ có một nghị quyết nói nhiều về nhân tài đến như vậy. Ông đếm được 18 chỗ nhắc tới hai chữ "nhân tài". Và nghị quyết cũng đã chỉ rõ: đãi ngộ nhân tài không kể người trong hay ngoài đảng.
Tuy nhiên, những nhận thức như vậy mới chỉ nằm trên nghị quyết. Chúng ta vẫn chưa có những chiến lược, chính sách quốc gia về nhân tài. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng lãng phí, chảy máu chất xám. Lực lượng đầu tàu của nguồn nhân lực không được chú trọng nên chất lượng toàn bộ của nguồn nhân lực Việt Nam thấp. Không còn là nguy cơ mà trên thực tế, chúng ta đang tụt hậu.
Ông Bảo phân tích thêm một nguyên nhân sâu xa khác. Việt Nam giống như các nước đồng văn chịu ảnh hưởng của đạo Khổng, thích dạy học theo kiểu hàn lâm, xa rời thực tế sản xuất. Minh Trị Thiên Hoàng từ bỏ cách học này sớm nhất, hướng theo cách đào tạo, tiếp thu khoa học kỹ thuật Âu - Mỹ và đã tạo nên “sự thần kỳ Nhật Bản”.
Hàn Quốc cách đây 35 năm cũng thoát khỏi tư tưởng Khổng Giáo, nhanh chóng dùng Giáo dục và Khoa học công nghệ để đi lên, nên đã rút ngắn quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa từ 200 năm xuống 30 năm. Hiện, chất lượng giáo dục ở bậc phổ thông của Hàn Quốc được xếp vào hàng đầu của thế giới (92% số lao động của Hàn Quốc có trình độ tú tài, vượt cả Nhật, Mỹ).
Việt Nam cũng như Trung Quốc đã duy trì quá lâu cơ chế kinh tế hành chính tập trung, quan liêu bao cấp, coi kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể là nền tảng, xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình, hòa đồng lợi ích cá nhân trong lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia. Như vậy, lợi ích cá nhân với tư cách là động lực của phát triển cá nhân, cộng đồng, xã hội đã bị hạn chế.
Về mặt chính trị, xã hội thì coi giai cấp công nhân, nông dân là chủ lực quân của cách mạng. Nhưng trình độ trí tuệ của đội quân này bị hạn chế. Còn tầng lớp trí thức thì do cách đào tạo theo niên khóa, với nội dung, phương pháp đào tạo lạc hậu lại ít được tiếp cận với các học thuyết, các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại nên tính sáng tạo bị hạn chế.
Từ năm 1996, TSKH Nguyễn Trọng Bảo đã chủ biên cuốn sách "Gia đình, nhà trường, xã hội với việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài". Quy trình 6 khâu từ phát hiện đến sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh theo ông chúng ta đang làm chưa tốt.
Sau Nghị quyết Trung ương 4 về nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài thì hệ thống trường chuyên, lớp chọn của chúng ta đã phát triển mạnh mẽ. Những tài năng trong nhà trường phát triển tốt. Những học sinh đi thi quốc tế đoạt giải cao. Nhưng những học sinh tài năng rất ít người trở thành nhân tài. Vấn đề nằm ở những khâu tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và đặc biệt là khâu sử dụng. Khâu sử dụng là khâu quan trọng nhất, quyết định toàn bộ 6 khâu liên hoàn này.
Nhà giáo nhân dân Phương Lưu chỉ rõ: trước kia khuynh hướng lựa chọn cán bộ là chọn những người dễ bảo. Bây giờ là chọn con cháu. Đây chính là dấu hiệu của sự suy thoái.
Nhân tài thường quan tâm về điều kiện làm việc, cơ chế, môi trường công tác, đãi ngộ vật chất và tinh thần. Quan trọng nhất là cơ chế. "Chính cơ chế hành chính bao cấp, bình quân cào bằng, sống lâu lên lão làng đang làm mai một và thui chột nhân tài. Cơ chế bầu cử, tiến cử, cơ chế lựa chọn nhân tài cũng như cơ chế chính sách cán bộ của chúng ta chưa tốt. Lòng tin của dân đối với Đảng giảm sút một phần, chính vì những lãnh đạo chủ chốt của chúng ta chưa phải những người tài năng, chưa biết trọng dụng nhân tài" - TSKH Nguyễn Trọng Bảo thẳng thắn đánh giá.
Chúng ta có 16 nghìn thạc sĩ, 14 nghìn tiến sĩ, hơn 7 nghìn giáo sư - phó giáo sư, 700 tiến sĩ khoa học. Có sử dụng tốt đội ngũ trí thức này mới hy vọng thu hút được rất nhiều nhân tài Việt Nam đang làm việc khắp nơi trên thế giới về góp sức xây dựng đất nước.
Bảng so sánh chính sách đối với các cá nhân tài năng
ĐT | Ở Việt Nam | Ở một số |
Sinh viên tốt nghiệp thủ khoa | Sinh viên giỏi tìm được việc làm tốt trong cơ quan nhà nước không nhiều (vì biên chế hết) | Sinh viên giỏi được doanh nghiệp ký hợp đồng, đỡ đầu, cấp học bổng, khi tốt nghiệp được đưa đi đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. |
Lương trả theo ngạch, bậc, có thể trả thêm cũng không nhiều.
| Lương trả theo thành quả lao động (có thể rất cao). Được cấp hộ chiếu ưu tiên.
| |
Nhân tài | Khi trong biên chế, do cơ chế, chính sách bó buộc rất khó thay đổi vị trí, nơi làm việc | Tự do sử dụng thời gian với tỷ lệ % được thoả thuận. Được di chuyển dễ dàng sau khi hoàn thành hợp đồng. Nếu đối xử không thỏa đáng, có quyền cắt hợp đồng chuyển nơi khác. Tạo ra thế cạnh tranh nhân tài |
Đánh giá nhân tài | Mới đây, người tài năng cũng dự thi tuyển vào một số vị trí công tác. Nhưng do vị nể, con ông cháu cha, chạy chọt... nên việc thi tuyển còn hình thức. Đứng đầu cơ quan, đơn vị, không ít nơi chưa phải là người có tài năng. Người tài còn trẻ khó phát huy được tác dụng vì tâm lý trọng người cao tuổi, người có nhiều kinh nghiệm thực tế. | Người tài đấu thầu dự án, thi tuyển có tính cạnh tranh: công khai, minh bạch, đảm bảo ai tài giỏi hơn sẽ thắng. Ai tài cao thì chức trọng.
|
Môi trường làm việc | Bầu không khí hợp tác: thiếu, yếu.
| Hợp tác theo cơ chế nhóm, làm việc cởi mở |
Thông tin ít, thiếu tạp chí nước ngoài | Thông tin qua nhiều kênh, đặc biệt qua mạng, qua nhóm | |
Giao lưu quốc tế, dự hội nghị, hội thảo ít | Giao lưu, dự hội nghị quốc gia, quốc tế dễ dàng | |
Trang thiết bị, máy móc còn lạc hậu, phòng thí nghiệm hiện đại ít. | Máy móc, trang thiết bị hiện đại | |
Trình độ ngoại ngữ, công nghệ thông tin thấp. Cập nhật thông tin qua mạng ít | Sử dụng ngoại ngữ tiếng Anh tốt, sử dụng máy tính nối mạng thành thạo. Có thể làm việc tại nhà. | |
Kết luận | Chất xám bị lãng phí, chảy máu chất xám. Óc sáng tạo bị ức chế. Tài năng khó có điều kiện trở thành nhân tài. Rất nhiều tài năng trẻ được giải vàng quốc tế nhưng không thành nhân tài.
| Luôn luôn kích thích óc tìm tòi, sáng tạo, buộc phải suy nghĩ, do cơ chế cạnh tranh chất xám.
|
Nhân tài đích thực ít được trọng dụng do cơ chế, chính sách và nhiều lý do khách nhau. | Nhân tài không chỉ được trọng dụng mà còn được suy tôn, hưởng nhiều quy chế ưu tiên, ưu đãi. |
Nguồn: Đề tài nghiên cứu chính sách phát triển nhân tài khoa học công nghệ phục vụ CNH, HĐH đất nước của Ban Khoa giáo Trung ương
Đã đến lúc, cả đất nước phải gồng mình lên
Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước, Đặng Tiếu Bình đã đề ra khẩu hiệu “Tôn trọng trí thức, tôn trọng tài năng, kế sách trăm năm, chấn hưng đất nước”. Năm 2004, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ Viện nước Cộng hòa dân chủ Trung hoa đã ra quyết định “Thực hiện chiến lược nhân tài, chấn hưng đất nước”. Trung Quốc đã xây dựng cả một Cục nhân tài của Trung ương, mỗi bộ có các thứ trưởng chuyên trách công việc tuyển chọn nhân tài.
Hàn Quốc có chính sách ưu đãi, lôi kéo người tài ở nước ngoài, ưu tiên, cấp hộ chiếu đặc biệt cho các nhà khoa học trẻ tuổi. Trong số hơn 200 hộ chiếu vàng được Hàn Quốc cấp thì có 14 người Việt Nam .
Năm 2004, chỉ số cạnh tranh của Việt Nam xếp thứ 77 trên thế giới. Năm 2005, xếp thứ 81.
TSKH Nguyễn Trọng Bảo nhận xét: Nhận thức của chúng ta về vai trò và tầm quan trọng của nhân tài chưa đầy đủ. Một số vấn đề về nhân tài chủ yếu mới dừng lại ở quan điểm, các lời nói chung chung. Chưa thấy một văn bản nào trình bày rõ, có hệ thống về vấn đề phát hiện, đào tạo, sử dụng nhân tài. Chính vì vậy, nhiều cán bộ lãnh đạo các cấp vẫn chưa quan niệm rõ ai là nhân tài, do đó chưa có các chế độ, chính sách thoả đáng tạo điều kiện cho nhân tài hình thành, phát triển.
Các nước phát triển đều coi nhân tài là lực lượng ưu tú, đầu tàu của nguồn nhân lực. Chính đội ngũ này đóng vai trò quyết định trong việc tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển và chính họ là lực lượng quan trọng tham gia vào khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa.
Đảng, nhà nước muốn có đội ngũ nhân tài đích thực, làm được vai trò nêu trên thì phải chăm lo rất công phu, phải xây dựng được chiến lược nhân tài kèm theo đó là một hệ thống các chính sách, chế độ, biện pháp rất cụ thể và đồng bộ ở cả 6 khâu liên hoàn trong quy trình từ phát hiện đến đãi ngộ và tôn vinh nhân tài.
Chỉ có những nước quan tâm xây dựng chiến lược nhân tài, coi hiền tài là nguyên khí quốc gia và thực thi chiến lược đó một cách cầu thị, nghiêm túc, sáng tạo thì nước đó mới có cơ hội vươn lên thành các nước phát triển trên thế giới.
Hiện trong quá trình hội nhập quốc tế, chỉ mới có khoảng 30 nước đã vượt lên, còn 5/6 số nước trên thế giới đang loay hoay trong cuộc chơi này. Trong đó có Việt Nam . Đã đến lúc, cả dân tộc chúng ta phải gồng mình lên.
Nguồn: vnn.vn 25/7/2006