Chùm ngây – Cây thần diệu
1. Tên gọi và nguồn gốc
Tên thông dụng: Chùm ngây (Việt Nam), Moringa (tên quốc tế), Drumstick tree (Mỹ), Horseradish tree (cây cải ngựa), Behen, Drumstick Tree (cây dùi trống), Indian Horseradish (cải ngựa - Ấn độ), Noix de Bahen.
Tên khoa học: Moringa oleifera hay M.Pterygosperma thuộc họ Moringaceae. Chi chùm ngây ( Moringa), là chi duy nhất trong họ chùm ngây ( Moringaceae). Chi này chứa 13 loài, tất cả đều là các cây thân gỗ sinh sống trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Nguồn gốc: Cây xuất xứ từ vùng Nam Á, có lịch sử hơn 4 ngàn năm, nhưng phổ biến nhiều ở cả Châu Á và Châu Phi. Cây Chùm ngây rất phổ thông ở Ấn Độ. Khu vực phân bố chủ yếu ở đông bắc và tây nam châu Phi, Madagascar, bán đảo Ả Rập, Nam Á.
Cây thuộc loại đại mộc, có thể mọc cao 5 đến 10m. Lá kép, dài 30 – 60 cm, màu xanh mốc; lá chét dài 12 – 20 mm hình trứng, mọc đối có 6 – 9 đôi. Hoa trắng, có cuống, hình dạng giống hoa đậu, mọc thành chùy ở nách lá, có lông tơ. Quả dạng nang treo, dài 25 – 30 cm, ngang 2cm, có 3 cạnh, chỗ có hạt hơi gồ lên, dọc theo quả có khía rãnh. Hạt màu đen, tròn có 3 cạnh, lớn cỡ hạt đậu Hòa Lan. Cây trổ hoa vào các tháng 1 – 2.
Loài phổ biến nhất là chùm ngây ( Moringa oleifera). Là loài cây có nhiều công dụng, có nguồn gốc từ khu vực thuộc bang Kerala của Ấn Độ. Lá của nó có thể ăn được. Loài cây này được trồng tại nhiều nơi trong khu vực nhiệt đới và là loài duy nhất của chi này có mặt tại Việt Nam. Loài có nguồn gốc châu Phi là Moringa stenopetala, cũng được trồng nhiều nơi, nhưng ít phổ biến hơn Moringa oleifera.
Chùm ngây là cây dễ trồng (trồng bằng hạt hoặc giâm cành), mau phát triển, từ vùng biển, đồng bằng và rừng núi cho đến độ cao 500m đều trồng được. Có thể trồng đại trà, trồng xen hoặc trồng làm hàng rào, dọc đường đi…Có thể khai thác lá non (trồng dọc hàng rào lên cao khỏi đầu người thì chặt bằng, cách mặt đất khoảng 1,5m, để khai thác cành lá non, thu hái vài chục ngày mỗi lứa; nên trồng thành rừng để vừa phủ đất vừa cho thu hoạch quả hay khai thác dược liệu. Lá và cành non dùng làm rau dinh dưỡng. Hạt khô rang ăn như lạc; dầu hạt Chùm ngây ăn được, thuộc dầu lâu khô nên có thể dùng làm mỹ phẩm hay tá dược…
Chùm ngây được xem là một cây đa dụng, rất hữu ích tại những quốc gia nghèo, nên đã được nghiên cứu khá nhiều về các hoạt tính dược dụng, giá trị dinh dưỡng và công nghiệp. Đa số các nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ, Philippines, và Châu Phi…Chùm ngây là một cây có giá trị kinh tế cao, cây phân bố tại nhiều quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó vừa là một nguồn dược liệu và là nguồn thực phẩm rất tốt. Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamin, beta-carotene, axít amin và nhiều hợp chất phenolics…
Do có nhiều giá trị về dinh dưỡng và dược liệu, cây Chùm ngây được dân tộc Ấn trân trọng đặt tên là cây Độ Sinh (Tree of Life); Các nhà nghiên cứu thực vật học, các nhà dược học, dựa vào hàm lượng dinh dưỡng và nguồn dược liệu quý hiếm được kiểm nghiệm, đã không ngần ngại đặt tên cho Chùm ngây là cây Thần Diệu(Miracle Tree)
1. Thành phần dinh dưỡng
Hàm lượng dinh dưỡng của quả, lá tươi và bột khô của lá cây Chùm ngây:
STT | Thành phần dinh dưỡng /100gr | Quả tươi | Lá tươi | Bột lá khô |
1 | Nước (%) | 86,9% | 75,0% | 7,5% |
2 | Năng lượng (calories) | 26 | 92 | 205 |
3 | Đạm (g) | 2,5 | 6,7 | 27,1 |
4 | Chất béo | 0,1 | 1,7 | 2,3 |
5 | Chất đường bột (g) | 3,7 | 13,4 | 38,2 |
6 | Chất xơ (g) | 4,8 | 0,9 | 19,2 |
7 | Chất khoáng (g) | 2,0 | 2,3 | - |
8 | Can xi (mg) | 30 | 440 | 2003 |
9 | Magnhe (mg) | 24 | 25 | 368 |
10 | Lân (mg) | 110 | 70 | 204 |
11 | Ka li (mg) | 259 | 259 | 1324 |
12 | Đồng (mg) | 3,1 | 1,1 | 0,054 |
13 | Sắt (mg) | 5,3 | 7,0 | 28,2 |
14 | Lưu huỳnh (g) | 137 | 137 | 870 |
15 | Axít Oxalic (mg) | 10 | 101 | 1,6 |
16 | Vitamin A (mg) | 0,11 | 6,8 | 1,6 |
17 | Vitamin B (mg) | 423 | 423 | - |
18 | Vitamin B1 (mg) | 0,05 | 0,21 | 2,64 |
19 | Vitamin B2 (mg) | 0,07 | 0,05 | 20,5 |
20 | Vitamin B3 (mg) | 0,2 | 0,8 | 8,2 |
21 | Vitamin C (mg) | 120 | 220 | 17,3 |
22 | Vitamin E | - | - | 113 |
23 | Arginine (g/16gN) | 3,66 | 6,0 | 1,33% |
24 | Histidine (g/16N) | 1,1 | 2,1 | 0,61% |
25 | Lysine (g/16N) | 1,5 | 4,3 | 1,32% |
26 | Tryptophan (g/16N) | 0,8 | 1,9 | 0,43% |
27 | Phenylanaline (g/16N) | 4,3 | 6,4 | 1,39% |
28 | Methionine (g/16N) | 1,4 | 2,0 | 0,35% |
29 | Threonine (g/16N) | 3,9 | 4,9 | 1,19% |
30 | Leucine (g/16N) | 6,5 | 9,3 | 1,95% |
31 | Isoleucine (g/16N) | 4,4 | 6,3 | 0,83% |
32 | Valine (g/16N) | 5,4 | 7,1 | 1,06% |
(nguồn: http://www.moringgatree.co.za/analysis.html)
Bảng so sánh chất dinh dưỡng trong mỗi 100g lá Chùm ngây tươi và khô:
Chất dinh dưỡng | Loại thực phẩm | Lá tươi | Lá khô |
Vitamin A | Cà rốt: 1,8mg | 6,8mg | 18,9mg |
Vitamin C | Cam: 30mg | 220mg | 17,3mg |
Can xi | Sữa: 120mg | 440mg | 2.003mg |
Ka li | Chuối: 88mg | 259mg | 1.324mg |
Đạm | Yaourt: 3,1g | 6,7g | 27,1g |
(nguồn: http://www.moringgatree.co.za/analysis.html)
Cây Chùm ngây chứa hơn 90 chất dinh dưỡng tổng hợp. Những chất dinh dưỡng cần thiết cho sức khỏe con người, giảm nguy cơ từ những chứng bệnh suy thoái, chữa trị các bệnh thông thường. Từ các nghiên cứu so sánh của các nhà khoa học giữa hàm lượng dinh dưỡng của lá cây Chùm ngây với những thực phẩm thường dùng như cam, cà rốt, sữa, cải bó xôi, yaourt, và chuối với cùng khối lượng có kết quả như sau:
o Vitamin C: Nhiều gấp 7 lần cam. Vitamin C tăng cường hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể và chữa trị những chứng bệnh lây lan như cảm cúm.
o Vitamin A: Nhiều gấp 4 lần cà rốt. Vitamin A hoạt động như một tấm khiên chống lại những chứng bệnh về mắt, da và tim, đồng thời ngăn ngừa tiêu chảy và những chứng bệnh thông thường khác.
o Can xi: Gấp 4 lần sữa. Can xi bồi bổ cho xương và răng, giúp ngăn ngừa chứng loãng xương.
o Sắt: Nhiều gấp 3 lần so với cải bó xôi. Sắt là một chất cần thiết đóng vai trò quan trọng trong việc truyền dẫn ôxy trong máu đến tất cả bộ phận trong cơ thể.
o Đạm (protein): Nhiều gấp 2 lần sữa chua. Chất đạm là những chất xây dựng tế bào cho cơ thể, nó được làm ra từ các axít amin, thông thường axít amin chỉ có những sản phẩm từ động vật như thịt, trứng, sữa,…nhưng lá Chùm ngây có chứa những axít amin cần thiết đó.
o Kali: Nhiều gấp 3 lần quả chuối. Kali là chất cần thiết cho óc và hệ thần kinh.
Các bộ phận của cây như lá, rễ, hạt, vỏ cây, quả và hoa có những hoạt tính như kích thích hoạt động của tim và hệ tuần hoàn, hoạt tính chống u bướu, hạ nhiệt, chống kinh phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu, hạ huyết áp, hạ cholesterol, chống ôxy hóa, trị tiểu đường, bảo vệ gan, kháng sinh và chống nấm…Cây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong Y học dân gian tại nhiều nước trong vùng Nam Á.
Lá Chùm ngây giàu dinh dưỡng, được hai tổ chức thế giới WHO và FAO xem như là giải pháp ưu việt cho các bà mẹ thiếu sữa và trẻ em suy dinh dưỡng, và là giải pháp lương thực cho thế giới thứ ba: Đối với trẻ em từ 1 – 3 tuổi, chỉ cần ăn 20g lá tươi là cung ứng 90% can xi, 100% vitamin C, A, B, 15% sắt, 10% đạm và các chất kali, đồng,…cần thiết cho trẻ trong ngày; đối với các bà mẹ đang mang thai và cho con bú, chỉ cần dùng 100g lá tươi mỗi ngày là bổ sung vitamin A, B, C, các khoáng chất: can xi, sắt, đồng, lưu huỳnh cần thiết trong ngày. Chỉ 1kg rau Chùm ngây mỗi ngày, cung ứng đủ hầu hết lượng dinh dưỡng cần thiết cho một gia đình 4 người, giải quyết được vấn đề suy dinh dưỡng cho người nghèo.
Hiện nay, trên thị trường đã có nhiều loại sản phẩm chế biến từ cây Chùm ngây như: Sản phẩm làm đẹp (beauty body) của The Body Shop (USA); nước uống dinh dưỡng của Cty Zija (USA); sản phẩm bột và viên dinh dưỡng của Yelixir (India); lá Chùm ngây tươi cũng đã được bày bán ở chợ Manila (Philipin).
3. Một số công dụng của của cây Chùm ngây trên thế giới
Mỹ: Hiện nay là nước nhập nguyên liệu Chùm ngây thô nhiều nhất. Sử dụng trong công nghệ mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trọng hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất.
Ấn Độ: Chùm ngây là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng, trị kinh phong, trị đau quanh cổ, trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với các vị thuốc khác). Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Dầu từ hạt để trị phong thấp.
Pakistan: Chùm ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài cách sử dụng như tại Ấn Độ, các thành phần của cây còn được dùng như: Lá giã nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai…Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt, phong thấp, gút, sưng gan và lá lách…Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sâu răng…
Trung Mỹ: Hạt Chùm ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán.
Saudi Arabia: Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông.
Việt Nam: Rễ Chùm ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa từ thân có tác dụng làm dịu đau.
Lương y Nguyễn Công Đức cho biết: Chùm ngây được dùng chữa các bệnh như: trị u xơ tiền liệt tuyến, trị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, giúp ổn định huyết áp, ổn định đường huyết, bảo vệ gan; trị tăng cholesterol, tăng lipít máu, tăng triglycerid, hoặc làm giảm axít uric, ngăn ngừa sỏi oxalate;
Ngoài ra, Chùm ngây còn có công dụng ngừa thai (đây là loại cây được đồng bào người Raglay dùng làm thuốc ngừa thai). Chùm ngây còn được dùng để lọc nước (bằng cách lấy 2 quả Chùm ngây tươi đã có hạt già, lấy hạt giã nát, trộn đều với 3 lít nước đục, khuấy đều trong 5 phút, để lắng 2 giờ thì có nước trong dùng được).
Hiện nay, chưa có báo cáo về những nguy hại đối với sức khỏe trong việc sử dụng hạt và rễ Chùm ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên, dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa. Không nên dùng rễ Chùm ngây cho phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai.
4.Cách gieo ươm và trồng, thu hoạch cây Chùm ngây
4.1. Cách gieo ươm
Cách 1:Ngâm hạt trong nước ấm (2 sôi + 3 lạnh) 24 giờ, hạt sau khi ngâm, vớt ra trộn với cát, ủ trong bao tải, hoặc rơm rạ mỗi ngày tưới một lần, 3 – 6 ngày sau hạt nảy mầm, đem hạt ươm vào bao nhựa hoặc chậu nhựa chứa đất tơi xốp có khoét lỗ rút nước, tưới nước vừa đủ ẩm, tránh sũng nước, 3 – 5 ngày cây sẽ nhú lên, sau 6 – 8 tuần đem ra trồng.
Cách 2: Ngâm hạt trong nước ấm 24 giờ. Lấy khăn bọc hạt lại và để trong tối. Mỗi ngày, nhúng bọc hạt vào nước sạch, sau đó vẩy nhẹ để nước không ứ đọng bên trong bọc. Vài ngày sau, hạt nảy mầm. Đem ươm vào chậu hoặc bao nilon có đất tơi xốp. Lưu ý là chậu hoặc bao nilon đều có lổ để thoát nước.
Cách 3: Dùng bao nilon hoặc chậu nhựa có lỗ thoát nước, đường kính khoảng 15 – 20cm và sâu chừng 25 – 30cm, đổ đất xốp vào, sau đó đặt hạt sâu khoảng 25mm dưới lớp đất xốp, phủ và nén nhẹ mặt đất, tưới nước đủ ẩm, không để khô quá hoặc quá ướt. Sau ba ngày hạt sẽ nẩy mầm, và cây sẽ ló ra khỏi mặt đất khoảng sau 1 tuần, tiếp tục tưới giữ ẩm, không để quá khô, và tuyệt đối không để thừa nước.
Giâm cành: Chặt cành non ( không chặt xéo), đường kính cành khoảng 10cm, cành dài 1,2m. Chôn gốc sâu 30cm, dẫm chặt xung quanh gốc cho vững, ngọn hướng lên trên, tưới nước vừa phải. Sau 20 ngày cành sẽ đâm tược. Khâu chuẩn bị đất, cách trồng như trên. Nếu muốn sử dụng rễ thì để cây phát triển bình thường 6 tháng trở lên.
4.2. Cách trồng
Tiêu chuẩn cây con đem trồng: Cây ươm trong chậu hoặc bao nilon được 6 – 8 tuần lễ, đã đâm rễ và cây đã cứng cáp.
Quy cách đào hố trồng: 40 X 40 X40cm
Khoảng cách các hố (cây): hàng cách hàng 1,5 – 2,0m, cây cách cây 1m.
Bón lót: Trộn phân chuồng hoai với đất mặt và phân hóa học cho vào hố.
Lấy cây ra khỏi chậu, bịch nilon, đặt cây con vào giữa hố ém chặt, tưới nước cho ướt.
Cắm 1 que tre cao 50cm cạnh cây Chùm ngây con, cột cây giữ cho cây không bị ngã.
Tưới giữ ẩm 2 – 3 tuần cho cây bén rễ và phát triển.
Nếu trồng để thu hoạch lá non (làm rau ăn liên tục) thì đánh hàng, lên líp. Hàng sâu hơn líp 20cm để dễ tưới nước hoặc dẫn nước vào. Khoảng cách trồng: hàng cách hàng 1,5m, cây cách cây 1m để dễ đi lại chăm sóc, thu hoạch. Hoặc có thể gieo trồng bằng hạt ngay trên luống đất xốp. Hạt gieo sâu 20cm, cây cách cây 40cm (như trồng ớt, trồng cà). Khi cây cao được 1,5m thì cắt ngang chừa lại 10cm, cây sẽ đâm tược theo cấp số nhân.
4.3. Năng suất thu hoạch
Cây 3 tháng tuổi đã bắt đầu cho thu hoạch, cây cao 60 cm bắt đầu cho thu ngọn và mỗi tháng sau đó tỉa cành thúc đẩy cây đâm chồi, chăm sóc bón phân, sau 6 tháng tuổi, cây cao khoảng 2m, là thời gian bắt đầu thu hoạch chính, trung bình cây đã có thể cho từ 500g – 900g lá tươi/cây/tháng. Nếu chỉ trồng 5.000 cây/ha (2m 2/cây), sau 6 tháng có thể thu hoạch trung bình 2.500kg lá/ha/tháng. Nếu chỉ bán với giá 20.000đ/kg, thì thu nhập ròng tại vườn của người trồng cây Chùm ngây ít nhất sẽ là 20 triệu đồng /tháng/ha.
5. Mô hình trồng cây Chùm ngây
Trồng cây Chùm ngây làm rau: Chị Thọ ở Xuân Lộc (Đồng Nai) đã ươm, trồng được 4 ha cây Chùm ngây và đã cho thu hoạch (năm 2009). Sau đó, chị mạnh dạn đầu tư xây dựng hệ thống nhà che, tưới phun nên cây phát triển rất tốt. Hiện có trên 2ha đang cho thu hoạch, trung bình mỗi ngày chị thu khoảng 20kg lá và ngọn, đa số được đưa vào hệ thống cửa hàng rau sạch của TP. Hồ Chí Minh và hệ thống siêu thị City mart, Maxi mart với giá 80.000 đồng/kg. Khách hàng tiêu thụ khá đông, cung không đủ cầu.
Chị Thọ cho biết: Vì muốn có lượng hàng nhiều, ổn định, nên đã làm hệ thống nhà che, tuy mức đầu tư cao nhưng sau khi thu hoạch, trừ mọi chi phí vẫn có thể cho lãi trên 100 triệu đồng/ha/năm. Trồng Chùm ngây để kinh doanh tốn nhiều nhất là khâu làm nhà che, còn lại công chăm sóc và chi phí phân bón chỉ bằng ¼ so với các loại cây trồng lâu năm khác và có thể cho thu hoạch liên tục trong 3 – 5 năm liền. Trồng Chùm ngây khoảng 2,5 tháng bắt đầu thu lá và cành, sau đó cắt lá 1 tuần/lần. Nếu trồng để lấy giống thì 8 tháng cây bắt đầu ra hoa màu trắng, có mùi thơm dịu, quả giống quả đậu co ve dài khoảng 25 – 30cm. Cây Chùm ngây có thể trồng bằng hạt, hoặc cành, khả năng chịu hạn tốt, thích nghi được cả những vùng đất kém màu.
Dự án bảo tồn, phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm: Chùm ngây là loài thảo dược quý hiếm ở vùng Bảy Núi (An Giang) mọc tự nhiên nhiều nhất ở 2 dãy núi Dài và núi Cấm được Chi cục kiểm lâm An Giang phát hiện. Địa phương đã thực hiện dự án trồng cây Chùm ngây ở vùng Bảy Núi để bảo tồn, phát triển sản xuất và hướng tới chế biến, tiêu thụ sản phẩm cây Chùm ngây với tổng diện tích 200 ha, mật độ 2.500 cây/ha, thời gian thực hiện trong 3 năm, và chính thức triển khai vào đầu năm 2010.
6. Vấn đề trồng cây Chùm ngây ở tỉnh Đắk Nông
Cây Chùm ngây chưa được quan tâm nghiên cứu kỹ về đặc điểm sinh thái và các biện pháp kỹ thuật trồng trọt, tuy nhiên, đây là loại cây gỗ, không đòi hỏi khắt khe về điều kiện sinh thái và chăm bón và là cây mọc tự nhiên ở nhiều vùng trong cả nước. Vào các năm 1999 – 2002, Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Lâm Nghiệp Tây Nguyên thực hiện đề tài cấp tỉnh (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Đắk Lăk quản lý): thử nghiệm các cây choái để trồng tiêu, triển khai tại huyện Đắk R’lấp (nay thuộc tỉnh Đắk Nông), trong đó có trồng thử nghiệm cây Chùm ngây để làm cây choái cho tiêu leo bám. Kết quả là cây Chùm ngây không thể làm choái sống để trồng tiêu được do bộ rễ yếu, dễ đổ ngã khi tiêu leo bám nhiều. Tuy nhiên, trong quá trình trồng, cho thấy cây Chùm ngây sinh trưởng rất tốt, cho nhiều lá, hoa, quả, ở vùng đất này. Tại khu thực nghiệm của Viện KHKTNLN Tây Nguyên hiện nay vẫn còn một số cây Chùm ngây sống ra hoa, kết quả hàng năm. Do trước đây chưa nhận biết được giá trị, công dụng của cây Chùm ngây, lẻ tẻ có một vài người dân biết sử dụng ngọn, lá để làm rau ăn trong gia đình, sản phẩm chưa có giá trị hàng hóa, nên người dân chưa phát triển trồng cây này.
Như vậy, về khả năng trồng trọt để trở thành sản phẩm hàng hóa thì cây Chùm ngây có thể phát triển tốt ở vùng đất tỉnh Đắk Nông. Vấn đề còn lại là sơ chế, bảo quản và thị trường tiêu thụ, chế biến. Đây là cây trồng có triển vọng cần được quan tâm trong ngành sản xuất rau an toàn và sản xuất dược liệu.
Trong thời gian chưa tìm được thị trường tiêu thụ, nhưng với giá trị dinh dưỡng và công dụng của nó, mỗi nhà nên trồng vài cây để sử dụng hàng ngày là rất thiết thực, đặc biệt ở vùng nông thôn để cải thiện dinh dưỡng hàng ngày./.








