Chu Văn An người thầy mẫu mực
Thưở nhỏ ở với mẹ, ông rất ham học và thông minh, nổi tiếng cả vùng. Thời niên thiếu của ông là cả một pho giai thoại gồm nhiều tình tiết đầy vẻ huyền thoại được lưu truyền trong dân gian.
Ông học rộng, đọc sách nhiều, giới nho sĩ đương thời ca ngợi tôn gọi ông là “Thái Sơn Bắc Đẩu”. Tuy vậy, ông không đem học vấn của mình ra thi thố trên đường khoa cử để ra làm quan. Ông mở trường dạy học ở quê nhà với quan niệm “Học nhi bất yêm, hội nhân bất quyện” có nghĩa: học không biết chán, dạy người không biết mỏi mệt, nên học trò theo học rất đông. Trường Huỳnh Cung của ông mở ra đã thu hút học trò không những ở quê nhà mà còn cả vùng Kinh Bắc, Sơn Nam, Châu Hồng, Châu Hoan, Tam Đái… Trong số học trò thành đạt có Phạm Sư Mạnh và Lê Quát. Phạm là người Châu Hồng (Hải Dương) và Lê Quát là người Châu Hoan (Thanh Hoá).
Khi vua Anh Tông nhà Trần băng hà, Minh Tông lên nối ngôi. Nhà vua nghe tiếng ông là bậc đạo học mô phạm liền cho vời vào làm ở Quốc Tử Giám tư nghiệp để dạy Thái tử học. Ông từ giã quê nhà để ra Kinh đô, tuy chỉ cách xa có một trăm dặm đường nhưng việc tạm đóng cửa trường để ra nhận chức quan là một chặng đường dài thật quan trọng trong đời Ông. Ông làm việc ở Quốc Tử Giám trải qua ba triều vua Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông. Đến đời vua Trần Dụ Tông, chính sự triều nội ngày một suy đốn, bọn quyền thần lắm kẻ sinh ra kiêu ngạo, nhóm nịnh thần là bọn Trâu Canh khuynh đảo quốc gia đại sự. Còn nhà vua đêm ngày chỉ lo vui chơi, lao vào cờ bạc, tửu sắc, bỏ bê triều chính. Ông khuyên can nhà vua rồi dâng sớ đòi chém bảy nịnh thần (thất trảm sớ). Nhà vua không nghe, ông bèn treo mũ áo từ quan xin về làng cũ sống với ruộng vườn, cơm rau đạm bạc. Việc làm của ông đã gây chấn động dư luận đương thời. Hành động của ông là hành động dũng cảm, hy sinh đời tư để lo đại sự. Bởi vậy, dù “thất trảm sớ” không được nhà vua chấp nhận nhưng nó đã là tiếng vang lớn lúc bấy giờ.
Ông trí sĩ rồi, nhân lúc ra chơi làng Ái Kiệt, huyện Chí Linh (Hải Dương) thấy nơi đây phong cảnh lạ lùng, núi non thanh tú mới làm nhà ở trong vùng núi Lân Phụng rồi lấy hiệu là Tiều Ẩn tiên sinh. Ông về ẩn cư ở đây cho đến mãn đời. Nhà thơ vịnh sử nổi tiếng ở thế kỷ XV là Đặng Minh Khiêm có bài thơ vịnh tiên sinh như sau:
Xong chương Thất trảm cũng từ quan
Già ẩn Chí Linh thú hưởng nhàn
Khí tiết thanh cao nên thiên cổ
Sĩ phu ngưỡng vọng tựa Thái San
Thể hiện trách nhiệm của một nhà nho trung quân, ái quốc trong thời kỳ còn ở Quốc học viện, ông đã viết bộ “Tứ thư thuyết ước” nhằm tóm tắt bộ sách Kinh điển là Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học và Trung dung làm giáo trình giảng dạy. Đáng tiếc là bộ “tứ thư thuyết ước” của ông nay đã thất truyền. Ông còn để lại cho đời sau tập thơ chữ Hán là “Tiều ẩn thi tập”. Tuy nhiên những tác phẩm này hầu hết đã bị thất truyền, chỉ còn sót lại 11 bài. Người ta căn cứ vào đó mà đánh giá được về tài năng thơ ca của ông. Chu Văn An quả thật có tâm hồn thi sĩ, tình cảm của Ông đối với con người với thiên nhiên luôn đạm đà, thắm thiết.
Vào cuối đời, vua Trần Dụ Tông có vời ông ra làm quan nhưng ông đã khôn khéo từ chối. Trước sau, Chu Văn An vẫn là nhà giáo luôn giữ khí tiết của một nho gia. Ông đã gửi trọn thời ẩn cư của mình ở vùng núi Chí Linh. Ngày 26 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) ông mất, hưởng thọ 78 tuổi. Vua Trần Nghệ Tông sai quan đến dự tế, ban tên thuỵ là Văn Trinh Công và ban cho hiệu là Khang Tiết tiên sinh, thờ nơi Văn Miếu.
Ngày nay, đền thờ Chu Văn An được dựng ở làng Thanh Liệt, hàng năm vào ngày rằm tháng tám âm lịch đều có giỗ kỵ ông.
Tên tuổi của Chu Văn An được nhân dân ta ngưỡng mộ. Trong dân gian, ông được mọi người coi là thánh và gọi ông là Thánh Chu, thờ ông làm Thành Hoàng và suốt dặm dài đất nước, nhiều trường học mang tên ông. Tình cảm của nhân dân ta đối với ông thật đậm đà, sâu sắc biết bao.








