Chiến lược “từ hạt lúa chứ không phải từ gạo”
Người nghèo theo chuẩn hiện nay là thu nhập 1,25 USD/ngày. Như vậy với 9 tỷ dân vào 2050 thì thế nào? Chưa kể tác động của thay đổi khí hậu, nông nghiệp vừa là "nguyên nhân”, vừa là "nạn nhân” của sự kiện thay đổi không thể đảo ngược ấy. Làm thế nào thế giới đương đầu trong 4 thập niên tới đây?
Câu trả lời không thể đi vào trực tiếp về nội dung kỹ thuật hoặc sinh học mà còn tính đến an sinh xã hội. Lương thực là căn bản của đời sống. Do vậy, hai chữ "nông nghiệp” có giá trị hơn bất cứ từ nào khác khi nói về hoạt động kinh tế. Và trong bối cảnh đó, vị thế của một cường quốc xuất khẩu của Việt Nam càng có ý nghĩa quan trọng trên thế giới và có giá trị an sinh mạnh mẽ trong nước.
Những lúc khó khăn nhất trong lịch sử phát triển, nông nghiệp Việt Nam đã tạo ra những giải pháp ngoạn mục giúp cả nước vượt qua khủng hoảng (1997, 2008, 2009 và 2010). Người ta hi vọng tạo ra được hàng loạt mục tiêu cạnh tranh từ nơi này đến nơi khác, đặc biệt khi chúng ta chính thức là thành viên của WTO.
Nhưng thế giới đang nhìn xem nông dân Việt Nam làm nhiều hơn về lương thực thực phẩm, như một ấn tượng đặc biệt của một đất nước đổi mới (lúa gạo, cá tra, tôm sú, cao su, hồ tiêu, cà phê, hạt điều, rau quả). Nông nghiệp là trung tâm để giảm đói cho nhân loại và là con đường chính để thoát nghèo cho đa số dân cư.
Các chuyên gia nông nghiệp cho rằng, mục tiêu sản xuất lúa gạo của Việt Nam phải nhắm đến an ninh lương thực là ưu tiên số một trong đó thu nhập của nông dân trồng lúa là động cơ để phát triển sản lượng lúa cả nước.
"Một nghịch lý cần được tháo gỡ là: nhà khoa học khuyến khích "phát triển bền vững” trong khi nông dân cần "thu nhập tăng”. Nông dân không thể chấp nhận một giải pháp kỹ thuật mới, mà sau đó thu nhập của họ không được khá hơn. Thực hiện GAP, tìm đầu ra cho nông sản có giá trị xuất khẩu cao có thể được xem là một trong các giải pháp được chọn. Xuất khẩu chỉ là một trong những phương tiện tạo thuận lợi cho sản xuất phát triển bền vững, an toàn lương thực cho đất nước” – GSTS Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật miền Nam nhận định.
Điều kiện đặt ra Việt Nam phải có chiến lược xuất khẩu gạo hợp lý, "không phải từ hạt gạo mà từ hạt lúa”. GSTS Bùi Chí Bửu lưu ý không nên quá nhấn mạnh đến yếu tố tài nguyên, lao động nhiều, giá nhân công rẻ (xem đó như một lợi thế so sánh) mà phải nâng cao không ngừng yếu tố tri thức trong quản lý và sản xuất, suy nghĩ nhiều đến giá trị gia tăng; thúc đẩy đầu tư của tư nhân trong nông nghiệp mạnh mẽ hơn, khuyến khích nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng xây dựng những Cánh đồng mẫu lớn của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (đã thực hiện được 7.800 ha trong năm 2011), để tiếp cận công nghiệp hóa. Đó cũng là điều mà những nông dân như Bảy Quí ở Hậu Giang đang chờ đợi!
Theo GS.TS Võ Tòng Xuân: “Nông dân thu hoạch lúa, ai cũng muốn bán liền tại ruộng. Với giá mà thương lái bắt buộc, vì mỗi nông dân cá thể không sao có quyền trả giá, họ luôn bán rẻ mua đắt. Mỗi khi bán lúa cho thương lái, đôi khi được giá thì nông dân quá hạnh phúc, nhưng thường là bị ép giá. Người trồng lúa mua đứt bán đoạn với thương lái. Nếu giá lúa có tăng mấy ngày sau khi bán, thì cái tăng đó thương lái hưởng trọn, nông dân không hưởng được gì.
Hàng chục giống lúa thương lái mua vào, được họ trộn chung, phơi sấy qua loa, cho máy bóc vỏ trấu thành gạo nguyên liệu, rồi họ bán lại cho các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc các nhà máy lau bóng gạo, sẵn sàng chờ lệnh đặt hàng của doanh nghiệp xuất khẩu để gấp rút lau bóng gạo rồi đưa ra bến cảng.
Vì cách làm bát nháo như thế nên đến bây giờ gạo Việt Nam xuất khẩu vẫn không có thương hiệu danh tiếng, khách hàng mở bao gạo ra thấy nhiều thứ gạo trộn lộn trong ấy. Dĩ nhiên họ phải trả giá thấp hơn gạo cùng loại của Thái Lan. Có thể thấy là phần lớn các công ty lương thực không có vùng nguyên liệu lúa, không hợp đồng với nông dân. Với hệ thống sản xuất lúa và thu mua tiêu thụ lúa như thế, gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn luôn thua kém gạo Thái Lan, không thương hiệu, chất lượng không ổn định, mất uy tín trên thị trường quốc tế.
Nông dân Việt Nam trồng lúa luôn chịu rủi ro, thiệt thòi; thậm chí có lúc giá lúa tăng cao, nhưng phải bán giá thấp. Nếu chúng ta tiếp tục để nông nghiệp sản xuất như thế thì chắc chắn nông dân sẽ không thể giàu”.








