Chiến lược phát triển thuỷ sản bền vững đến năm 2020
Nếu như năm 2008, tổng sản lượng thuỷ sản đạt 4,6 triệu tấn, giá trị xuất khẩu đạt trên 4,5 tỷ USD thì năm 2009, mặc dù chịu tác động mạnh của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 4,85 triệu tấn, tăng 5,3% so với năm 2008, giá trị xuất khẩu đạt trên 4,2 tỷ USD. Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 5 về xuất khẩu thủy sản, đứng thứ 3 về sản lượng nuôi trồng thuỷ sản (sau Trung Quốc, Ấn Độ) và đứng thứ 13 về sản lượng khai thác hải sản trên toàn thế giới. Cơ cấu kinh tế thuỷ sản tiếp tục đổi mới, theo hướng tăng nhanh công nghiệp, dịch vụ nghành nghề, góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho ngư dân; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới, kết cấu hạ tầng được tăng cường; bộ mặt cộng đồng tham gia phát triển thuỷ sản được thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng tham gia phát triển thuỷ sản ngày càng được cải thiện, đóng góp quan trọng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước. Ngư dân đã thật sự là chủ thể quyết định sự phát triển của nghành thuỷ sản và thuỷ sản đã trở thành bộ phận quan trọng của mặt trận nông nghiệp. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa xứng với tiềm năng, lợi thế về phát triển thuỷ sản của đất nước. Việc phát triển thuỷ sản hiện còn thiếu bền vững, tốc độ tăng trưởng liên tục tăng cao, song không ổn định, sức cạnh tranh sản phẩm hàng thuỷ sản trên thị trường thế giới còn yếu. Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Cơ cấu nghành nghề thiếu hợp lý và còn chuyển đổi chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong lĩnh vực thuỷ sản, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, quản lý theo ngư hộ, kém đầu tư cho công nghệ và môi trường, năng suất không ổn định, chất lượng và giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thuỷ sản còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường trong nước và thế giới.
![]() |
Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, kinh tế thế giới đang có nhiều biến động, xu hướng phát triển thuỷ sản của các nước ngày càng đa dạng và cạnh tranh quyết liệt, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới. Thuỷ sản Việt Nam đang chuyển hướng từ phát triển chiều rộng sang phát triển chiều sâu, là một trong những hướng phát triển chủ lực của nền kinh tế quốc dân. Nhiều định hướng phát triển thuỷ sản của các thời kỳ trước không còn phù hợp. Trước bối cảnh đó, việc xây dựng “Chiến lược phát triển thuỷ sản Việt Nam đến 2020” là cần thiết và cấp bách. Trên cơ sở phân tích tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn lực, những thời cơ và thách thức, dự báo cung cầu của phát triển thuỷ sản, tư tưởng chỉ đạo được xác định cụ thể như sau: - Chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2020 là một bộ phận cấu thành của Chiến lược Biển Việt Nam đến 2020 do nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 ban hành và là bộ phận cấu thành của vấn đề Nông nghiệp, nông dân và nông thôn mà nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 đã đề ra. Sự ra đời của chiến lược này sẽ góp phần triển khai thắng lợi 2 nghị quyết trên trong khoảng thời gian 10 năm. Tư tưởng chủ đạo của Chiến lược Phát triển thuỷ sản đến 2020 bắt nguồn từ quan điểm chỉ đạo được nêu trong phần định hướng Chiến lược Biển Việt Nam đến 2020 là “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển” và từ Nghị quyết số 26 về Nông nghiệp, nông dân và nông thôn; “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hộ bền vững, giữ vững ổng định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”. Đây là tư tưởng xuyên suốt từ quan điểm chỉ đạo đến mục tiêu và các định hướng nhiệm vụ lớn trong Chiến lược Phát triển thuỷ sản đến năm 2020. Tư tưởng chủ đạo phát triển thuỷ sản đến năm 2020 là tạo ra những bước đột phá để giải quyết mối quan hệ giữa sản xuất kinh doanh với môi trường sinh thái và nguồn lợi, giữa tăng trưởng kinh tế và hiệu quả kinh tế - xã hội môi trường góp phần tạo ra sự hài hoà, hợp lý trong bức tranh tổng thể về kinh tế - xã hội nghề cá nước ta.
Do tính chất liên hoàn, đồng bộ các khâu của nghề cá, nên cần phải tổ chức lại sản xuất nghành thuỷ sản theo chuỗi giá trị sản phẩm từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến tiêu thụ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước. Theo dự báo, do thế giới vừa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, sự gia tăng giá nguyên liệu là điều không thể tránh khỏi nên việc đột phá khâu nhiên liệu là vấn đề mang tính chiến lược quan trọng liên quan đến tổ chức lại sản xuất, chuyển dịch cơ cấu và xây dựng các tiêu chí, lựa chọn công nghệ cho công nghiệp hoá nghề cá nước ta.
Không chỉ phát huy tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động dồi dào, phát triển thuỷ sản còn phải trở thành nghành sản xuất hàng hoá lớn, xuất khẩu chủ lực trong nông nghiệp. Phải phát triển khoa học công nghệ gắn liền với đẩy mạnh điều tra cơ bản làm luận cứ cho phát triển và quản lý thuỷ sản. Đây vừa là chủ trương, vừa là giải pháp đi trước mang tính đột phá. Thực hiện mục tiêu phát triển thuỷ sản đến năm 2020 không thể không tính đến vai trò của nhóm xã hội ngư dân, một nguồn lực nòng cốt tham gia hầu hết các lĩnh vực liên quan đến biển, đảo, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất tạo ra của cải vật chất xã hội từ nguồn lợi tự nhiên, tạo việc làm và thu hút lao động xã hội trong nghề cá, là lực lượng tiếp nhận và sáng tạo ra khoa học kỹ thuật trên các lĩnh vực kinh tế xã hội của biển đảo, là lực lượng quan trọng trong việc bảo vệ nguồn lợi, môi trường và quản lý vùng trời, bảo vệ biển đảo. Tăng cường xây dựng năng lực quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội thuỷ sản phải dựa trên cơ sở khoa học của tiếp cận quản lý tổng hợp nghề cá liên quan đến điều kiện tự nhiên, các điều kiện địa chính nhằm đủ mạnh để quản lý, kiểm soát các hoạt động phát triển thuỷ sản. Bên cạnh quản lý trên cơ sở hệ sinh thái, quản lý nhà nước, phải đẩy mạnh quản lý trên cơ sở cộng đồng và đồng quản lý. Cần xây dựng cơ chế để kích thích ý thức tự giác, năng lực tự quản lý của ngư dân bằng cách kết giao tự quản lý nguồn lợi của từng cộng đồng trên cơ sở phân cấp quản lý nghề cá cho các địa phương và kế thừa các giá trị từ các hương ước quản lý truyền thống mà cần được thể chế hoá đồng bộ mang tính hệ thống trong phạm vi cả nước. Phát triển thuỷ sản đi đôi với việc bảo vệ nguồn lợi, bảo vệ môi trường, và an sinh xã hội, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Một giải pháp mang tính chiến lược là giảm số lượng tàu thuyền ven bờ hoạt động nghề cá xâm hại đến nguồn lợi thuỷ sản và chuyển đổi cho ngư dân, đó là chủ trương lớn cần đầu tư thích đáng để ổn định đời sống và sinh kế cho bà con ngư dân.
Biển Đông đã trở thành vùng biển có tranh chấp phức tạp và tiềm ẩn xung đột vì xuất phát từ vị trí địa kinh tế - chính trị của Việt Nam có tầm quan trọng to lớn trong hình thế chiến lược phát triển toàn cầu và khu vực. Để ổn định và phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ quốc tế trong phát triển thuỷ sản nói riêng và các nghành kinh tế biển nói chung, cần thiết phải chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế thuỷ sản với bảo vệ quốc phòng an ninh trên biển.
Những tư tưởng chủ đạo trên được xuyên suốt trong toàn bộ Chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2020. Đó là kim chỉ nam đưa nghành thuỷ sản bước vào thời kỳ phát triển mới, trở thành nghành sản xuất hàng hoá lớn, có khả năng cạnh tranh cao trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước góp phần bảo vệ an ninh - quốc phòng, đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển…









