Chiến lược mới của Mỹ đối với một Trung Quốc mới
"Cảm hứng" chính của đợt tranh luận này là việc Trung Quốc dường như muốn từ bỏ phương châm "giấu mình chờ thời" của Đặng Tiểu Bình và điều chỉnh chiến lược "phát triển hòa bình" với những hành động tự tin, quyết đoán khẳng định vị thế nước lớn trong khu vực và trên thế giới; chính quyền Obama sau năm đầu tiên tập trung củng cố nội bộ đã công bố một loạt điều chỉnh, cam kết chính sách mạnh mẽ và có những triển khai bước đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương; và sự tự tin dâng cao từ hai phía đã dẫn đến những cọ xát lợi ích, kể cả đạo hình sin vừa hợp tác, hòa hoãn vừa cạnh tranh được duy trì từ ba thập kỷ qua. Cuộc tranh luận hiện tại cơ bản có ba luồng quan điểm chủ đạo. Thứ nhất, quyền lực toàn cầu tiếp tục có sự dịch chuyển về khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi Trung Quốc với thế và lực gia tăng nhanh chóng đang đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, phát huy "sức mạnh mềm" và nỗ lực xác lập những luật chơi mới ở khu vực. Thứ hai, Mỹ vẫn giữ ưu thế về sức mạnh tổng thể so với Trung Quốc về lâu dài và vai trò lãnh đạo cũng như cam kết chiến lược của Mỹ vẫn được duy trì, góp phần xây dựng một cấu trúc an ninh khu vực ổn định, bền vững mà trong đó, Mỹ và Trung Quốc san sẻ lãnh đạo nhưng không liên kết kiểu G-2. Thứ ba, luồng quan điểm này mang màu sắc "chủ nghĩa hiện thực" cho rằng cạnh tranh, thậm chí xung đột chiến tranh là khó tránh khỏi trong thời kỳ quá độ quyền lực ở khu vực, nhưng khó có kịch bản trật tự hai cực, hai phe ở khu vực. Tuy vậy, điểm chung của ba luồng quan điểm trên là dự báo khá lạc quan về triển vọng hợp tác nổi trội hơn cạnh tranh ở khu vực và cái nhìn tích cực đối với sự điều chỉnh chính sách của Mỹ thông qua cách tiếp cận mềm dẻo, tổng hợp kiểu "sức mạnh thông minh", vừa gắn kết, vừa kiềm chế Trung Quốc thông qua mạng lưới đồng minh, đối tác và các cơ chế đa phương. Kịch bản bá quyền Mỹ ở khu vực, kịch bản G-2 hay kịch bản đối đầu kiểu hai phe, hai cực đều không nhận được sự ủng hộ rộng rãi của giới học giả.
Như vậy, một Trung Quốc mới đòi hỏi Mỹ cần có một chiến lược mới. Đó là lời kêu gọi của chuyên gia về Trung Quốc David Shambaugh trong bài báo gây chú ý dư luận trên tạp chí Current History(tháng 9/2010), đặc biệt trong bối cảnh quan hệ Mỹ - Trung trải qua một năm đầy sóng gió dưới thời Obama và hai nước nỗ lực ổn định quan hệ chuẩn bị chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào (18 - 21/1/2011). Tuy gần đây đã có rất nhiều nghiên cứu về quan hệ Mỹ - Trung được cho là cặp quan hệ có ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới và khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay nhưng David là một trong số ít các học giả đưa ra đề xuất khá hệ thống về những đường nét lớn của một chiến lược mới của Mỹ đối với một Trung Quốc đang thay đổi, lớn mạnh.
Nhìn lại 30 năm qua, tác giả cho rằng chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc về cơ bản đã thành công, góp phần thúc đẩy Trung Quốc cải cách, mở cửa, hội nhập ngày càng sâu rộng vào hệ thống quốc tế và duy trì được hòa bình trên eo biển Đài Loan. Trong bối cảnh tương quan so sánh lực lượng giữa Mỹ và các cường quốc khác đang thay đổi và cục diện khu vực có nhiều biến chuyển lớn, đặc biệt là sự trỗi dậy mạnh mẽ trên nhiều phương diện của Trung Quốc, đã đến lúc Mỹ cần đánh giá lại tổng thể chiến lược với Trung Quốc dựa trên 4 cột trụ là: ( i) định hình (shaping) nhằm tác động thay đổi xã hội Trung Quốc; ( ii) gắn kết (engagement) do Tổng thống Mỹ Clinton khởi xướng và đẩy mạnh mặt hợp tác với Trung Quốc; ( iii) hòa nhập (integration) Trung Quốc vào hệ thống đa phương quốc tế; và ( iv ) kiềm tỏa chiến lược (strategic hedging) thông qua tăng cường hệ thống trục và nan hoa (hub and spokes), củng cố quan hệ với đồng minh và các đối tác để đạt ưu thế chiến lược với Trung Quốc. Theo David, một chiến lược mới với Trung Quốc cần tính tới đầy đủ những thay đổi về sức mạnh, hành vi của Trung Quốc ở các cấp độ nội bộ, song phương, khu vực và toàn cầu. Theo đó, Mỹ cần thừa nhận và học cách chung sống, đối thoại với Trung Quốc, xây dựng và đặt chiến lược mới với Trung Quốc trong tổng thể chiến lược khu vực rộng lớn hơn của Mỹ, và cùng chung tay với các nước khu vực (bao gồm cả nước lớn và nhỏ, trong đó có ASEAN) xây dựng một cấu trúc an ninh mới thay thế cho hệ thống trục và nan hoa đã lỗi thời.
Tư tưởng trên ít nhiều đã được lồng ghép trong các thông điệp chính sách khu vực của chính quyền Obama nhưng phải sau hai năm thử nghiệm, nghiên cứu, tư tưởng đó mới được thể hiện rõ nét và có hệ thống nhất qua bài phát biểu "Tầm nhìn rộng lớn về Quan hệ Trung - Mỹ trong thế kỷ 21" (ngày 14/1/2011) của Ngoại trưởng Hillary Clinton ngay trước thềm chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào.
Bài phát biểu nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ Trung - Mỹ đối với hòa bình, ổn định ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 1979) nói chung và từ khi Tổng thống Obama lên cầm quyền (2009) nói riêng. Quan hệ hai nước đã vượt ra khỏi khuôn khổ khu vực và mang tầm cỡ toàn cầu. Nền kinh tế hai nước liên quan rất mật thiết với nhau. Hai nước cũng đang gánh vác những nghĩa vụ, trách nhiệm toàn cầu. Đó chính là thừa nhận về sự thay đổi về chất của quan hệ. Trong bối cảnh thế kỷ 21 đang thay đổi nhanh chóng, các chủ thể phi nhà nước và nhiều thách thức mới đang nổi lên, Mỹ coi Trung Quốc là một cường quốc đang lên đặc biệt trong thế kỷ 21, chấp nhận chia sẻ gánh nặng chung giải quyết các vấn đề của thế giới, tuân thủ và đóng góp vào xây dựng một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Mỹ không coi Trung Quốc là mối đe dọa và không có ý định kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Những bất đồng, khác biệt giữa hai nước lớn như Mỹ và Trung Quốc là không thể tránh khỏi và cần được xử lý trong khuôn khổ hợp tác sâu rộng, bền chặt hơn. Quan hệ Trung - Mỹ là quan hệ cùng thắng, cùng đi trên một con thuyền. Tuy nhiên, đó là mối quan hệ phức tạp, hợp tác đan xen với cạnh tranh và sự cạnh tranh tất yếu đó không được làm tổn hại lợi ích phát triển của nhau và không đe dọa đến hòa bình, ổn định, thịnh vượng của khu vực nói chung. Điều này cũng phù hợp với chính sách của các nước khu vực muốn phát triển quan hệ cân bằng với cả Trung Quốc và Mỹ.
Từ cách tiếp cận đó, Mỹ đề xuất xây dựng quan hệ tích cực, hợp tác và toàn diện với Trung Quốc trong thời gian tới. Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc đang và sẽ được triển khai lồng ghép trong chiến lược ba trọng tâm: (i) gắn kết mạnh mẽ với khu vực châu Á - Thái Bình Dương; (ii) xây dựng sự tin cậy (chiến lược) trong quan hệ Mỹ - Trung; (iii) mở rộng hợp tác kinh tế, chính trị và an ninh ở mức tối đa với Trung Quốc và cộng đồng quốc tế.
Về trọng tâm thứ nhất, Mỹ đặt quan hệ Trung - Mỹ trong tổng thể chiến lược rộng lớn hơn của Mỹ đối với khu vực; phủ nhận những đồn đoán về kịch bản G-2, bác bỏ quan điểm Mỹ đặt quan hệ Mỹ - Trung lên trên chiến lược chung đối với khu vực; khẳng định lại vai trò của ngoại giao tiền tiêu (forward-deployed diplomacy) với ba mục tiêu chính ở khu vực là (i) tăng cường quan hệ đồng minh, (ii) mở rộng quan hệ đối tác (trong đó có Việt Nam); và (iii) đẩy mạnh tham gia vào các cơ chế đa phương như TPP, APEC, ARF, EAS (nhấn mạnh diễn đàn đa phương sẽ khuyến khích hành vi có trách nhiệm và kiềm chế những hành động phương hại hòa bình, ổn định, thịnh vượng của khu vực).
Về trọng tâm thứ hai, do sự nghi kỵ chiến lược giữa hai bên vẫn còn sâu sắc, đặc biệt là sự thiếu minh bạch trong việc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc, vì vậy hai bên phải xây dựng thói quen hợp tác, tôn trọng lợi ích của nhau và giải quyết bất đồng nổi lên. Cụ thể, cần phát huy cơ chế Đối thoại Kinh tế và Chiến lược (S&ED); tăng cường hợp tác quân sự theo hướng ổn định, minh bạch; giao lưu nhân dân…
Về trọng tâm thứ ba, Mỹ sẽ khuyến khích Trung Quốc thực hiện vai trò, nghĩa vụ nước lớn của mình trên thế giới; tăng cường hợp tác với Trung Quốc và cộng đồng quốc tế để giải quyết các thách thức chung về kinh tế, các điểm nóng trên thế giới, các vấn đề toàn cầu và dân chủ nhân quyền. Cụ thể, hai bên sẽ tăng cường hợp tác trong G20; hợp tác về thương mại, đầu tư, công nghệ cao; an ninh hạt nhân và biến đổi khí hậu; viện trợ, đầu tư của Trung Quốc ở các nước đang phát triển, đặc biệt ở châu Phi, cần tuân thủ những chuẩn mực quốc tế; hợp tác giải quyết vấn đề hạt nhận I-ran và Đài Loan. Đặc biệt, Mỹ dành cho mỗi vấn đề CHDCND Triều Tiên và dân chủ, nhân quyền 5 đoạn phân tích các bước tiếp cận cụ thể và hợp tác với Trung Quốc, thể hiện sự quan tâm và ưu tiên lớn của Mỹ trong gian tới.
Như vậy, sau khi đã công bố chính sách chung đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trải qua năm 2010 nhiều sóng gió trong quan hệ Trung - Mỹ, chính quyền Obama chính thức công bố lần đầu tiên chiến lược với tầm nhìn dài hạn đối với Trung Quốc nhằm đưa quan hệ Mỹ - Trung đi vào quỹ đạo ổn định, dễ dự báo hơn. Tuy không phải là đột phá nhưng khuôn khổ, tên gọi của quan hệ đã được xác định rõ là " tích cực, hợp tác và toàn diện trong thế kỷ 21". Trong chuyến thăm Mỹ vừa qua, cả Obama và Hồ Cẩm Đào đều sử dụng tên gọi này để mô tả quan hệ.
Chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc về cơ bản nhất quán với chiến lược tổng thể và các triển khai của Mỹ đối với khu vực thời gian qua. Ba trọng tâm của chiến lược thực chất là sự lồng ghép với ba trọng tâm của chiến lược châu Á - Thái Bình Dương mà Mỹ đã công bố trước đây. Theo đó, quan hệ Trung - Mỹ chỉ được xem là một bộ phận cấu thành trong cấu trúc khu vực đang định hình chứ không phải đứng lên trên, bắt tay thỏa hiệp và chi phối cấu trúc đó theo mô hình G-2. Cấu trúc đó gồm ba thành tố chính: mạng lưới đồng minh của Mỹ, các quan hệ đối tác của Mỹ và các cơ chế hợp tác đa phương về kinh tế, chính trị, an ninh (đặc biệt là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Cấp cao Đông Á (EAS)).
Một nét mới nữa là Mỹ nhấn mạnh rõ tuy tiềm năng hợp tác là rất lớn nhưng bất đồng là đương nhiên và cạnh tranh là tất yếu. Đặc điểm này thể hiện cái nhìn thực tế hơn của Mỹ về giới hạn của hợp tác trong quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với Trung Quốc, đồng thời cho thấy sự cần thiết phải tăng cường hợp tác, đối thoại để vượt qua bất đồng, xử lý khủng hoảng, cạnh tranh cùng thắng. Mỹ cũng mong muốn kết hợp vừa khéo léo, vừa cứng rắn hơn giữa chính sách can dự và kiềm chế dưới vỏ bọc học thuyết "sức mạnh thông minh", trong đó thay vì thỏa hiệp, đánh đổi với Trung Quốc nhiều hơn, Mỹ sẽ giữ vững và triển khai nhất quán những lập trường đối ngoại mang tính nguyên tắc của mình ở khu vực, qua đó tăng uy tín, vai trò của Mỹ trong một cấu trúc khu vực đang định hình. Bên cạnh đó, việc chuyển liên tục các thông điệp chính sách rõ ràng, công khai trong thời gian qua phản ánh cách chủ động "chơi bài ngửa" của chính quyền Obama, muốn tập hợp dư luận, xác lập luật chơi chung để đưa Trung Quốc vào thế phải chấp nhận. Hai bên cần phải nhìn thẳng vào những bất đồng, tranh chấp, cần phải hành xử có trách nhiệm và chia sẻ gánh vác nghĩa vụ quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu…
Trong chuyến thăm Mỹ vừa qua, dư luận đánh giá Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã có phần mềm mỏng hơn nhằm tiếp tục cải thiện hình ảnh quốc tế, xoa dịu lo ngại về "mối đe dọa Trung Quốc" trong nội bộ Mỹ và dư luận thế giới, tiếp tục trở lại "giấu mình chờ thời" để phục vụ chiến lược "phát triển hòa bình" của mình. Tuyên bố chung Mỹ - Trung và các phát biểu của Hồ Cẩm Đào ở Mỹ cho thấy Trung Quốc nhất định với Mỹ về một số điểm cơ bản như khuôn khổ, tên gọi mới của quan hệ, tư tưởng đấy mạnh hợp tác, đối thoại, cùng đi trên một con thuyền. Điểm khác biệt đáng chú ý là trong khi Obama thẳng thắn nêu bất đồng là đương nhiên và cạnh tranh là tất yếu, Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh nhiều lần rằng hai nước cần tôn trọng và thỏa hiệp lợi ích của nhau, bao gồm lợi ích cốt lõi (core interest) và lợi ích phát triển (development interests).
Với chiến lược này, Mỹ muốn trấn an các nước khu vực cần tin tưởng hơn vào sự ổn định về chính sách và sự nhất quán giữa chính sách và triển khai của Mỹ đối với châu Á - Thái Bình Dương và trong quan hệ Mỹ - Trung, chí ít là của chính quyền Obama. Mỹ cũng muốn cho các nước thấy xu thế hòa dịu, triển vọng hợp tác theo tinh thần "cổ đông có trách nhiệm" trong quan hệ Trung - Mỹ càng lớn thì cả khu vực (và thế giới) đều có lợi, cấu trúc khu vực sẽ sớm được định hình và các khu vực càng có điều kiện đẩy mạnh triển khai chính sách quan hệ cân bằng với cả Trung Quốc và Mỹ. Mặt khác càng thấy rõ qua chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, tuy sự gắn kết, tùy thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế là rất lớn nhưng những bất đồng, nghi kỵ chiến lược, khác biệt về giá trị vẫn là rào cản lớn.








