Cây Qua lâu
Hoa màu trắng, bìa cánh hoa có nhiều sợi dạng mi. Hoa cái và hoa đực riêng.
Quả hình cầu hoặc hình trứng, màu lục có sọc trắng. Khi chín màu đỏ, trong có nhiều hột hình trứng dẹt, màu nâu nhạt. Dây này mọc hoang trong rừng, núi, trên đất có mùn xốp, có độ ẩm cao. Cũng mọc ở các hốc đá có nhiều mùn. Theo GS Phạm Hoàng Hộ, Qua lâu mọc hoang ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Bộ phận dùng:
- Vỏ quả có tên Qua lâu bì.
- Hạt có tên Qua lâu nhân.
- Rễ củ có tên Qua lâu căn hoặc Thiên hoa phấn.
Các vị này có bán ở hiệu thuốc, dùng nhân của hạt và rễ củ.
Tính vị: vị ngọt, tính lạnh.
Tác dụng: giáng khí, hoá đờm, giảm ho, lợi hầu họng, tăng lượng sữa.
Điều trị:
* Phế nhiệt ho nhiều đờm
Qua lâu nhân 20g
Cát cánh 10g
Hạnh nhân 10g
Gừng khô 2g
Nấu sắc uống, ngày 1 thang, dùng 5-7 ngày.
* Đái tháo đường
Thiên hoa phấn 30g
Thục địa 10g
Hoài sơn 30g
Bạch truật 30g
Nấu sắc uống hoặc tán thành bột mịn, uống, dùng lâu dài.
* Hoạt huyết, phòng và trị tắc động mạch
Qua nhân lâu 30g
Dương quy 30g
Đào nhân 5g
Ngũ vị tử 10g
Nấu sắc uống ngày 1 thang, trong 5-7 ngày, nghỉ 1 tuần rồi dùng lại 2-3 đợt.
* Thiên hoa phấn làm teo gai nhau thai dẫn đến thai nhi thiếu dinh dưỡng; do đó, không dùng Thiên hoa phấn cho người có thai.
* Nhân hạt (Qua lâu nhân) có tính kháng ung thư, chống HIV nhưng có độc, dùng thận trọng.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 299, 1/1/2006







