Cây Mạn kinh
Mạn kinh là cây có mùi thơm. Cành khi còn non thường có 4 cạnh và có lớp lông mềm bao phủ. Mạn kinh là loại cây vừa có lá đơn vừa có lá kép. Cùng trên một cành có trường hợp phía trên hay phía dưới có lá đơn, còn toàn bộ là lá kép. Riêng lá kép thường có cuống chung hơi dài phủ dưới lớp lông mềm. Phiến lá rộng bản, mặt phải nhẵn, mặt trái có lớp lông trắng mịn. Trong chùm lá kép thường là kép ba, trong đó lá giữa to bản hơn lá hai bên. Hoa mọc ở đầu cành, phân thành nhiều nhánh, mỗi nhánh là một chùm hoa màu xanh nhạt. Quả tròn có đài bao bọc già nửa.
Mạn kinh là cây hoang dại, mùa Đông quả bắt đầu chín rộ là lúc người ta thu hái quả phơi khô dùng làm thuốc mang tên Mạn kinh tử.
Theo tài liệu cổ, Mạn kinh tử có vị cay đắng, tính hơi hàn vào 3 kinh: Can, Phế và Bàng quang; có tác dụng tán phong nhiệt, làm mát huyết. Dùng chữa các chứng cảm, sốt, nhức đầu, chóng mặt, mặt mũi tối tăm; đau mắt, nhức trong mắt, các chứng đau phong tê thấp.
Những phương thuốc có vị Mạn kinh tử
Phương Dũ phong thang (cổ phương gia giảm)
Chủ trị: bồi bổ khí huyết trừ phong thấp, đau toàn thân.
Mạn kinh 12g
Xuyên khung 8g
Đương quy 16g
Thục địa 20g
Bạch thược 8g
Sa sâm 8g
Phục linh 8g
Thương truật 8g
Nhục quế 4g
Hoàng kỳ 12g
Khương hoạt 6g
Độc hoạt 8g
Tần giao 8g
Phòng phong 8g
Phòng kỷ 6g
Địa cốt bì 8g
Thạch cao 1g
Ma hoàng 2g
Cúc hoa 6g
Tế tân 2g
Đỗ trọng 8g
Kỷ tử 6g
Cam thảo 4g
Phương thuốc chữa chứng cảm sốt đầu choáng, hoa mắt, chóng mặt (bài thuốc kinh nghiệm)
Mạn kinh 16g
Phòng phong 12g
Bạc hà 12g
Tang diệp 12g
Sài hồ 12g
Cúc hoa 8g
Bách hợp 8g
Thăng ma 12g
Đăng tâm 6g
Cam thảo 4g
Đại táo 3 quả.
Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần xa bữa ăn 30 phút.








