 | | Phao tiêu đầu tiên trong hệ thống cảnh báo sóng thần của Indonesiađã được thả ngoài khơi đảo Sumatratừ 21.9.2005 nhưng phải vài năm nữa mới hoàn thành cả hệ thống. Hệ thống này có khả năng cảnh báo những cơn địa chấn dưới lòng biển có khả năng gây ra sóng thần nhưng không thể cảnh báo những trận động đất trên đất liền. | Thoát chết sau trận động đất kinh hoàng ở Yogyakartangày 27.8, chú bé Bangus 5 tuổi vẽ hình ngôi nhà của em khi nằm trong bệnh viện cấp cứu. (Ảnh: EPA) |  |  | | Cường độ của các trận động đất luôn được các máy địa chấn ký ghi nhận nhưng khả năng dự báo chính xác vẫn còn là chướng ngại mà khoa học chưa vượt qua được. | Một mẫu máy địa chấn kế đặt dưới lòng đại dương trong hệ thống cảnh báo sóng thần được trưng bày ở Viện Hải dương học Leibniz (Đức) vào tháng 10.2005. Hệ thống này do các nhà nghiên cứu Đức và Indonesia hợp tác phát triển sau thảm hoạ sóng thần cuối năm 2004 nhưng phải đến năm 2008 mới có thể thử nghiệm thực tế. |  |  | | Các nhà khoa học hiện nay chưa thể tiên đoán chính xác cường độ, địa điểm và thời gian động đất mà chỉ có thể ước tính được quy mô tàn phá nếu như có một trận động đất xảy ra. | Tháng 4.2005, các đảo nhỏ ven bờ Sumatra, Indonesiađã hứng chịu một trận đống đất 8,7 độ Richter. Indinesia nằm ngay khu vực có mật độ động đất cao nhất thế giới. Chừng nào khoa học còn chưa hoàn thiện kỹ thuật dự báo động đất thì thảm hoạ còn xảy ra. |
Các nhà địa chấn học cho tới nay vẫn không thể dự đoán chính xác sẽ xảy ra động đất mạnh chừng nào ở khu vực nào và vào thời gian nào. Dù vậy, nhiều hệ thống cảnh báo sớm vẫn được thiết lập ở nhiều nơi. Sở hữu các hệ thống này chủ yếu là các doanh nghiệp trong ngành hoả xa, điện lực hay sản xuất. Các hệ thống cảnh báo hiện thời chưa thể tiên đoán được động đất. Thay vào đó, một hệ thống cảm biến dàn trải gần vùng tâm chấn (epicentre) có thể ước tính được quy mô chấn động một khi lòng đất bắt đầu nứt rạn. Hệ thống có thể báo động trước khi trận động đất khởi đầu nhờ tận dụng thời gian trễ mà các sóng địa chấn phải di chuyển từ tâm động đất (hypocentre) lên tới mặt đất. Các hệ thống dự báo được điều này vì các sóng địa chấn trong lòng đất có tốc độ chậm hơn tốc độ của những tín hiệu điện tử truyền qua mạng lưới máy tính. Thời gian cảnh báo nhanh hay chậm phụ thuộc vào khoảng cách đối với tâm chấn. Do đó, các hệ thống cảnh báo sớm hiện thời đều vô hiệu quả nếu nằm ngay ở tâm chấn, nơi các sóng chính (P-waves) và sóng phụ (S-waves) phát sinh gần như đồng thời và cường độ chấn động mạnh nhất. Những khu vực nằm trong khu vực động đất nhưng xa tâm chấn có thể nhận được cảnh báo trước khi động đất xảy ra 60 giây mà thôi. Cảnh báo sớm không phải lúc nào cũng đúng. Từ tháng 2.2004 đến tháng 8.2005, hệ thống cảnh báo mới của Nhật đã báo động 245 lần nhưng 25 là báo động sai. Hệ thống cảnh báo 2 triệu USD của Mexicođược thiết lập sau trận động đất năm 1985 ở Mexico City . Ngay trong năm khánh thành, hệ thống này phải tạm ngưng hoạt động 2 lần sau sự cố máy tính khiến cho không cảnh báo được một trận động đất lớn và sau đó lại báo động sai. Năm nay, Cục Khảo sát địa chất Mỹ sẽ triển khai 3 hệ thống cảnh báo thử nghiệm - 2 hệ thống do tập đoàn Caltech chế tạo và 1 hệ thống của Đại học Berkley, California. Các nhà khoa học Mỹ sử dụng dữ liệu của các động đất đã xảy ra để kiểm tra các giải thuật máy tính xem chúng có thể ước tính cường độ động đất chính xác đến đâu. Theo kết quả thử kiểm tra, hệ thống của Đại học Berkley có thể đoán chính xác quy mô một trận động đất chỉ sau 4 giây phân tích dữ liệu. Với khả năng tiên đoán rất hạn chế, việc xây dựng các hệ thống cảnh báo động đất vừa được sự ủng hộ vừa bị phản đối. David Wald - chuyên gia của Cục Khảo sát địa chất Mỹ - hoài nghi: "Cảnh báo sớm lam cho dân chúng nghĩ rằng sẽ có đủ thời gian cần thiết. Nhưng thực tế, ta chẳng có bao nhiêu thời gian". Nhà địa chấn học Richard Allen - người thiết kế hệ thống cảnh báo đang thử nghiệm thì lạc quan: "Cảnh báo sớm không phải thuốc trị bá bệnh. Nhưng nhờ đó có thể giảm thiểu tác hại". Nguồn: Khám phá, số 30&31, 08/06/2006 |