Cần xác định một số tư liệu lịch sử liên quan đến Trường Dục Thanh
1. “Giáo dục thanh thiếu niên là mục đích của một trường tư thục thời thực dân Pháp chiếm đóng nước ta”.
Theo chúng tôi, ý kiến này chưa chính xác. Thực dân Pháp xâm chiếm Đông Dương không phải để khai hoá mà để vơ vét, bóc lột tài nguyên của nước ta, của dân ta đem về làm giàu cho chính quốc. Trước năm 1945, ở nước ta chỉ có 2 hệ thống nhà trường: trường Công, thầy do nhà nước bổ nhiệm, trả lương, học sinh học miễn phí và trường Tư, thường do một nhà trí thức bỏ tiền ra xây dựng trường, trực tiếp làm hiệu trưởng kiêm giảng dạy một vài bộ môn nào đó với mục đích kinh doanh là chính (ví dụ như trường Cẩm Bàng, trường Hoàng Tỷ… ở Phan Thiết) trừ trường Dục Thanh mang tính chất “nghĩa thục” được thành lập trong phong trào Duy Tân, do Liên Thành Thương quán bảo trợ, học sinh ăn học không trả tiền, thầy giáo chỉ hưởng trợ cấp mỗi tháng 8 đồng để tiêu vặt mà không hưởng lương.
2. Tác giả bài viết còn nói cụ Nguyễn Thông còn có một người con trai tên là Nguyễn Trọng Đậu? Chẳng biết tư liệu này được khai thác từ đâu? Ai cũng biết cụ Nguyễn Thông (1827 – 1884) kết duyên cùng bà Ngô Thị A Thuý, có 5 con: hai trai, ba gái, hai trai là Nguyễn Trọng Lội (1873 – 1911) và Nguyễn Quý Anh (1873 – 1947), ngoài ra không có người con trai nào tên Đậu cả!
3. Tác giả nói rằng “Bài ca cắt tóc là bài ca tiêu biểu” trong chương trình giảng dạy của trường Dục Thanh. Nhận định trên theo chúng tôi quá vội vàng. Theo các cựu học sinh trường Dục Thanh sau ngày giải phóng còn sống cho biết: mở đầu cho buổi học, học sinh hát Bài ca Ái quốc:
Nước Nam ta từ đời Hồng Lạc
Mấy ngàn năm khai thác đến nay
Á châu riêng một cõi này
Giống vàng ta giữ xưa nay một loài
Vuông dặm đất ba mươi mấy vạn (?)
Nào bạc vàng nhan nhản thiếu chi
Đồng tươi, ruộng tốt tứ bề
Có điều lợi đất ai bì được đâu…
…..
Bài này được soạn lại dựa nội dung bài Tinh quốc hồn ca(1) dài 472 câu của cụ Phan Châu Trinh viết năm 1907:
Ngồi mà nghĩ dư đồ Hồng Lạc
Ta cũng là một nước Á đông
Xưa nay vẫn chán anh hùng
Dọc ngang trời đất vẫy vùng non sông
Hai mươi triệu sỹ, công, cổ
Bốn mươi muôn quốc thổ dặm vuông
Người nhiều đất rộng rõ ràng
Thế mà nghĩ lại, lại càng tủi thương…
Kể sao xiết trăm đường cay đắng.
…….
Còn bài Khuyên cắt tóccủa trường Dục Thanh:
Gọi cúp tóc là thất trung, thất hiếu
Chớ tóc dài trung hiếu với ai đâu
Kìa xem trong ngũ đại châu
Nào ai dài tóc có đâu như mình
Nói ra ngặt mà làm thinh cũng ngặt
Hễ có tay, có chân, có mày, có mặt
Chữ đồng tâm cho chắc mới nên người
Hễ mà có mắt không ngươi
Có tai không lỗ như người sống dư
Duy Tân lúc bấy chừ là phải
Tóc cúp đi thì dại mới chừa cho
Biết ăn mà chẳng biết lo
Lửa đã táp đến giò mà chẳng biết
Người mà chẳng tiếc sao tóc da còn tiếc
Nghĩ cái đời dại thiệt chớ khôn đâu
Muốn ăn còn đợi kẻ và
Còn mang thói cũ ắt là hư thân.
Cũng dựa ý bàiPhen này cắt tóc đi tucủa Nguyễn Quyền:
Phen này cắt tóc đi tu
Tụng niệm kinh Phật ở chùa Duy Tân
Đêm ngày khấn vái chuyên cần
Cầu cho ích nước lợi dân mới là
Quyết tu sao cho mở trí dân nhà
Tu sao độ được nước ta phú cường
Lòng thành chắp một tuần nhang
Nam mô Phật Tổ Hồng Bàng chứng minh
……..
và bài Húi Hề, lúc bấy giờ rất được phổ biến ở Hà Nội:
Tay trái cầm lược, tay phải cầm kéo
Húi hề, húi hề… thủng thẳng cho khéo
Bỏ cái ngu này, bỏ cái dại này…
4. Có người đánh giá trường Dục Thanh là trường tư thục “tiến bộ nhất” lúc bấy giờ, đề cao vị trí một số yếu nhân, cho rằng sở dĩ trường Dục Thanh phải giải thể do mấy nguyên nhân sau đây:
- Do Nguyễn Tất Thành ra đi (khoảng tháng 10 – 1910?) nên trường thiếu thầy dạy?
- Do cụ Nguyễn Quý Anh, Giám hiệu bỏ trường vào Chợ Lớn lấy vợ nên trường như rắn mất đầu?
- Do cụ Nguyễn Trọng Lội qua đời nên không ai quan tâm đến việc bảo trợ cho trường Dục Thanh! (Mất ngày 7 – 6 Tân Hợi, tức 1 – 7 – 1911. Có người nhầm lẫn ngày bia mộ táng 16 – 6 Nhâm Tý, tức 7 – 1912).
Dục Thanh nghĩa thục mang xu hướng Duy tân, tiến bộ (1908) nhưng trước nó, từ 1905 – 1906 ở Quảng Nam đã có phong trào Duy tân do cụ Phan Châu Trinh khởi xướng. Phong trào lan rộng đến hơn 40 xã, có xã chánh quyền dường như nằm trong tay các bạn Duy tân. Ở Hà Nội, từ tháng 3 – 1907 đến 12 – 1907 có phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Trường áp dụng mô thức của Phúc Trạch Dụ Cát (1835 – 1901) được thành lập ở Nhật từ năm 1858. Đông Kinh nghĩa thục được hình thành sau chuyến Đông Du của hai cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh sang Nhật, tham quan các học đường, khảo sát công việc chính trị, giáo dục của Nhật. Trường dạy thao lối Tân học Trung Hoa và Nhật Bản, đứng đầu là hai cụ Lương Văn Can và Nguyễn Quyền, dạy cả Hán văn, Pháp văn, Việt văn, dạy đủ các môn văn, sử, địa, toán, cách trí, công dân giáo dục, thể dục thể thao… có 8 lớp, dự kiến mở rộng cả 3 ban: Tiểu học, Trung học và Đại học. Học sinh có cả nhỏ tuổi và lớn tuổi, lên đến hàng ngàn! Tuy trường chỉ tồn tại 9 tháng, nhưng đã xốc lên một phong trào yêu nước mạnh mẽ ở Hà Nội và các tỉnh phía Bắc làm thực dân Pháp lo sợ lòng dân náo động nên Phủ Thống sứ Bắc kỳ quyết định rút giấy phép buộc đóng cửa trường!
Nhìn lại Dục Thanh nghĩa thục thì trường sở nhỏ hẹp, chỉ có 120 mét vuông diện tích cho cả 4 lớp, học sinh chỉ khoảng 60 em (theo như phát biểu của cụ Nguyễn Đăng Lầu), lực lượng giáo viên thì quá mỏng (chỉ có 6 thầy) ảnh hưởng chính trị không lan rộng như phong trào Duy Tân ở Quảng Nam và Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Theo Trung kỳ dân biểu tụng oan thi mạt kýcủa cụ Phan Châu Trinh do Lê Ấm dịch thì: “Sở dĩ Dục Thanh, cơ sở canh tân ở Phan Thiết tồn tại và giải thể chậm là vì công sứ Garnier chống lệnh Khâm sứ Trung kỳ Lévèque không chịu huỷ trường học, phá hội buôn, bắt thân sỹ”. Cụ Phan đã hiểu nhầm con cáo già Garnier, cho hắn ta là “một nhà dân chủ, am hiểu rộng”. Thực tế tình hình chính trị ở Phan Thiết lúc bấy giờ thì sau khi phong trào Cần Vương bị dập tắt, những nhân sỹ yêu nước tích cực hoạt động chẳng còn bao nhiêu.
5. Về nguyên nhân trường Dục Thanh giải tán, tình cờ tham khảo Huỳnh phái phổ lục(gia phả của họ Huỳnh) do ông Huỳnh San Tài (1900 9 1983), trợ giáo, hàm Hàn lâm trước tác động và ông Huỳnh Khánh Tòng (1906 – 1977), cựu sinh viên Cao đẳng Công chánh, hiệu trưởng trường tư thục Đức Dục ở Phan Rí và Phan Rang, viết xong năm 1974, chúng tôi thấy có đoạn đáng lưu ý như sau:
“… Đa số nhân viên Công ty Liên Thành, giáo sư Dục Thanh nghĩa thục là những đồng chí từ Nghệ Tĩnh và Quảng Nam đưa vào. Những hoạt động tích cực của các vị ấy bị viên án sát Võ Liêm, tay sai của Pháp, báo cáo ra Toà Khâm sứ Huế. Khâm sứ Lévèque có vào thanh tra tại Phan Thiết và bảo Công sứ Garnier theo dõi nhóm này.
Một buổi chiều trong năm 1910, Công ty Liên Thành bị nhà chức trách địa phương khám xét và tịch thu một tráp hình chữ nhật đem về Toà xứ Phan Thiết để xem xét. Hội đồng gồm có Công sứ Garnier, Tuần vũ Hồ Văn Phức và Phán sự Trần Lệ Chất. Đã cảm thông trước với ông Hồ Văn Phức, ông Trần Lệ Chất dịch bừa những tài liệu và thư tín của Duy Tân Hội bằng Hán văn ra sách Đông y và toa thuốc Bắc. Cuộc tra cứu tạm ngưng vào lúc 9 giờ tối ngày ấy. Sáng hôm sau, ông Trần Lệ Chất đến Toà sứ rất sớm, mở tráp thu hết tài liệu cất giấu trong người rồi thay thế bằng sách và toa thuốc Bắc. cuộc xem xét không đưa đến một kết quả nào. Mặc dù thế cũng có một công điện của Toà Khâm sứ Huế bắt Công sứ Garnier phải ra lệnh đóng cửa Dục Thanh Nghĩa thục…”.
Qua tư liệu trên, chúng ta biết trường Dục Thanh không phải do nó tự giải thể mà nó bị nhà cầm quyền ra lệnh phải đóng cửa. Như vậy, sau khi trường Dục Thanh đóng cửa, Nguyễn Tất Thành mới có thể cùng cụ Trương Gia Mô đi vào Sài Gòn (khoảng tháng 9, 10 năm 1910) và cụ Nguyễn Quý Anh được Tổng lý Nguyễn Trọng Lội phân công vào nhận quản lý Phân cuộc Liên Thành ở Chợ Lớn. Ý kiến này khác hẳn với nhiều ý kiến trước đây cho rằng trường Dục Thanh giải thể sau khi cụ Nguyễn Trọng Lội qua đời.
6. Về người đưa Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, trong Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Namcủa Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Bá Thế (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1991) viết như sau: “Khoảng tháng 8 năm 1910, ông Hồ Bá Bang (1875 – 1943) cùng ông Trương Gia Mô (1866 – 1929) đưa Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn tìm đường sang Pháp, rồi ông trở ra điều hành trường Dục Thanh (?). Ý kiến này không chính xác, vì giám hiệu Trường Dục Thanh là cụ Nguyễn Quý Anh, còn ông Hồ Tá Bang chỉ là một thành viên sáng lập Công ty Liên Thành, từ năm 1889 làm ký lục tại Toà sứ Phan Thiết, đến cuối năm 1910 được đổi ra thị trấn Hội An. Người đưa Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn là cụ Trương Gia Mô, nên khi vào đến nơi, cậu Thành nghỉ ở nhà ông Lê Văn Đạt, anh em bà con bạn dì với cụ ở Xóm Cầu Rạch Bần, nay là 183/1 đường Cô Bắc.
Nguồn: Xưa và Nay, số 81B tháng 11 năm 2000







