Cần nuôi dưỡng tinh thần đổi mới sáng tạo trở thành văn hóa
(Chinhphu.vn) - “Đổi mới sáng tạo” sẽ là một trong những cụm từ khóa nổi bật trong nhiều năm tới. Chúng ta cần kiên trì xây dựng, nuôi dưỡng để đổi mới sáng tạo trở thành một nét văn hóa của con người Việt Nam, song song tồn tại cùng với giá trị truyền thống của dân tộc ta.
TSKH. Nghiêm Vũ Khải. Ảnh: VGP/Hoàng Giang |
TSKH. Nghiêm Vũ Khải, đại biểu Quốc hội (TP. Hải Phòng), nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, nguyên Thứ trưởng Bộ KH&CN chia sẻ với phóng viên Báo điện tử Chính phủ.
Tại lễ khởi công xây dựng Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia tại Khu Công nghệ cao Hoà Lạc vào ngày 10/1 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh: “Để thực hiện mục tiêu, khát vọng bứt phá tăng trưởng của đất nước để trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao đến năm 2045, vào đúng thời điểm kỷ niệm 100 năm thành lập nước đã được đề cập tại Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cần dựa vào tri thức, khoa học công nghệ, và đặc biệt là đổi mới sáng tạo, coi đây là yếu tố nội sinh quan trọng của tăng trưởng”.
Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, chính công nghệ mới, cùng với nguồn nhân lực phù hợp mới là yếu tố quyết định cho tăng trưởng trong dài hạn, là chìa khóa để chúng ta đột phá trong phát triển, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Phát triển khoa học công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo là một trong những nội dung được nhấn mạnh trong các đột phá chiến lược thời gian tới, được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030. Đây cũng là một trong những điểm mới trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII.
Việt Nam có thể trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu châu Á
Xin ông đánh giá về KHCN và đổi mới sáng tạo nước nhà trong những năm qua?
Ông Nghiêm Vũ Khải: Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta phát triển ngoạn mục với mức tăng trưởng 6-7%, đặc biệt năm 2020 với nhiều khó khăn, thách thức, thiên tai, dịch bệnh… song chúng ta vẫn đạt GDP tăng trưởng dương (2,91%).
Như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ to lớn, vai trò và vị thế cao như ngày nay”. Theo tôi, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh tế-xã hội, chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, trong đó có sự đóng góp tích cực của KHCN (không phải chỉ có hoạt động các nhà khoa học trên các lĩnh vực khoa học cơ bản, KHCN mà còn cả khoa học xã hội, quản lý, khoa học chính trị…).
Sau 5 năm, Việt Nam từ vị trí 59 (năm 2016) trong bảng xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, đã tăng 17 bậc, xếp vị trí 42 (năm 2020) trên tổng số 131 quốc gia về nền kinh tế (năm 2019 là 42/129). Với kết quả này, Việt Nam giữ vị trí số 1 trong nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á. Công bố quốc tế tăng 5 lần sau 10 năm. Một số lĩnh vực KHCN có bước tiến dài như y dược, công nghệ thông tin, sinh học…
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận lại, đúng như dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đánh giá, KHCN và đổi mới sáng tạo chưa thực sự tạo động lực then chốt cho phát triển kinh tế-xã hội. Chúng ta chưa tận dụng hết được những cơ hội, thời cơ, năng lực còn hạn chế. Do đó, đòi hỏi việc quản lý hoạt động KHCN, đầu tư cho KHCN, hợp tác quốc tế KHCN phải có những bước đi mang tính đột phá mới phù hợp với thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và chuyển đổi số.
Ông đánh giá như nào về việc vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã phát lệnh khởi công xây dựng Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia tại Khu Công nghệ cao Hoà Lạc? Liệu đến năm 2045, Việt Nam có trở thành trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực châu Á như Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra?
Ông Nghiêm Vũ Khải: Tôi còn nhớ, trong bài phát biểu nhậm chức trước Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có nói: “Dư địa chính sách và nguồn lực cho phát triển giai đoạn tới rất hạn hẹp. Để phát triển nhanh và bền vững, phải tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả đầu tư. Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải cách thể chế, chấn hưng giáo dục và KHCN”.
Năm 2016 được Thủ tướng quyết định chọn là “Năm quốc gia khởi nghiệp”, đồng thời phê duyệt Quyết định 844/QĐ-TTg hỗ trợ xây dựng Hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia đến năm 2025.
Ngày nay, mô hình tăng trưởng kiểu cũ dựa vào tài nguyên, vốn, lao động giá rẻ... không còn dư địa để tồn tại và phát triển nữa. Tôi cho rằng, xây dựng Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia là một bước đi, quyết định rất quan trọng, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ, mở đường cho việc phát triển mang tính chất đột phá của KHCN và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trong 10 năm tiếp theo.
Trung tâm này sẽ được hưởng các cơ chế, chính sách ưu đãi cao nhất và các thủ tục hành chính thuận lợi nhất theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện hỗ trợ, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng phát triển KHCN.
Tôi đã có dịp đi nghiên cứu kinh nghiệm tại Mỹ, cường quốc này coi KHCN và đổi mới là nền tảng của nền kinh tế và là công cụ vô giá để hợp tác với đối tác nước ngoài. Khoa học, kỹ thuật, công nghệ và đổi mới là động cơ của xã hội hiện đại và một lực lượng thống trị trong quá trình toàn cầu hóa và phát triển kinh tế quốc tế. Những nền kinh tế lớn trên thế giới rất coi trọng phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, thì không có lý do gì chúng ta lại không.
Để Việt Nam trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu châu Á, từ nay đến năm 2045 là quãng thời gian 25 năm có thể giúp Việt Nam thực hiện được mục tiêu đó, tuy nhiên đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc về thể chế, chính sách, đầu tư, đào tạo và trọng dụng nhân tài...
Đặc biệt, cùng với việc xây dựng đội ngũ các nhà khoa học, kỹ sư, các nhà quản trị đổi mới sáng tạo chuyên nghiệp thì chúng ta cần đẩy mạnh phong trào đổi mới sáng tạo trong cộng đồng. Chúng ta cần kiên trì xây dựng, nuôi dưỡng để đổi mới sáng tạo trở thành một nét văn hóa của con người Việt Nam, song song tồn tại cùng với giá trị truyền thống của dân tộc ta như chủ nghĩa yêu nước, đức hy sinh, lòng nhân ái… Làm được như vậy mới có thể tạo được nền tảng vững chắc để KHCN và đổi mới sáng tạo thực sự là quốc sách hàng đầu.
Ông có kỳ vọng gì về những chủ trương, quyết sách phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo tại Đại hội Đảng lần thứ XIII?
Ông Nghiêm Vũ Khải: KHCN và đổi mới sáng tạo đặc biệt được nhấn mạnh tại Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII. Chỉ riêng Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030, cụm từ “đổi mới sáng tạo” đã xuất hiện 45 lần.
Nhớ lại, Đại hội III của Đảng (năm 1960), đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, trong vô vàn khó khăn, thách thức, Đảng ta đã đề ra chủ trương tiến hành 3 cuộc cách mạng ở miền Bắc: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng văn hóa-tư tưởng và cách mạng khoa học kỹ thuật, trong đó lấy cách mạng khoa học kỹ thuật làm then chốt.
Nhờ những chính sách đó mà cho dù chiến tranh rất ác liệt, nhưng Đảng, Nhà nước vẫn dành sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư đặc biệt để triển khai một số biện pháp phát triển khoa học kỹ thuật và giáo dục một cách nhất quán, mạnh mẽ, thể hiện rất rõ tinh thần “giáo dục, đào tạo và khoa học kỹ thuật là quốc sách hàng đầu”.
Khi đó, hàng nghìn học sinh ưu tú đã được gửi sang học và nghiên cứu tại các nước XHCN; một số trường đại học, viện nghiên cứu, ngành học then chốt đã được thành lập và hoạt động. Nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật được đào tạo thế hệ đó đã đóng vai trò rất quan trọng trong xây dựng sức mạnh quân đội nhân dân cũng như xây dựng thế và lực của cách mạng, góp phần đưa công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước đến thắng lợi hoàn toàn. Hơn thế nữa, nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật cũng có nhiều cống hiến to lớn cho phát triển kinh tế-xã hội từ sau khi đất nước thống nhất cho đến ngày nay.
Thời kỳ đổi mới, từ Cương lĩnh của Đảng, nghị quyết các đại hội Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị... đến Hiến pháp và các đạo luật do Quốc hội ban hành đều đặt KHCN vào vị trí quốc sách hàng đầu. Rất nhiều chính sách, biện pháp có tính đột phá đã được đề ra nhằm mục tiêu đưa KHCN thực sự trở thành “một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước”.
Có thể nói, các dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề cập đến vai trò, vị trí và các nhận định, chủ trương phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo sâu sắc và đậm nét nhất so với nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội trước. Trong đó đề ra những định hướng cốt lõi là phát triển nguồn nhân lực KHCN, hạ tầng nghiên cứu ứng dụng KHCN và đổi mới cơ chế, chính sách phát triển kinh tế nói chung, đầu tư cho KHCN nói riêng. Điều này củng cố thêm niềm tin của chúng ta vào những bước đột phá của nền KHCN, đổi mới sáng tạo nước nhà.
Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào KHCN
Theo ông, để KHCN và đổi mới sáng tạo thực sự là quốc sách hàng đầu, động lực then chốt phát triển kinh tế-xã hội, cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề nào?
Ông Nghiêm Vũ Khải: Có thể nói, mặc dù đạt được một số kết quả tích cực, nhưng khâu thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng vẫn còn bất cập, hoạt động KHCN nặng về hình thức, còn kế hoạch hóa kiểu cũ, đầu tư xây dựng hạ tầng, phương tiện nghiên cứu, thiết bị cho nhà khoa học hạn chế, chưa có nhiều phòng thí nghiệm trình độ quốc tế phục vụ nghiên cứu cơ bản, những ngành mũi nhọn, công nghệ cao...
Đầu tư cho KHCN còn thấp, mà lại chủ yếu dựa vào đầu tư từ ngân sách Nhà nước, cho đến nay chưa đến 1% GDP. Trong khi đó, các nước G7, G20 là 3-4% đồng thời, ngân sách Nhà nước đầu tư 1 phần thì doanh nghiệp và xã hội đầu tư tới 3-4 lần ngân sách Nhà nước. Do nguồn đầu tư quá hạn hẹp cho nên chúng ta thiếu các chương trình lớn, không có thành tựu lớn và ít có các nhà khoa học lớn.
Để nền KHCN và đổi mới sáng tạo được phát triển nhanh và bền vững, thứ nhất, chúng ta phải hoàn thiện chính sách, pháp luật; có chính sách, biện pháp thiết thực để tập hợp, quy tụ được các nhà khoa học trong và ngoài nước. Tôi cho rằng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thì nhà khoa học không nhất thiết phải về nước mới có thể cống hiến cho đất nước.
Tôi cũng đã nghiên cứu một số chính sách thu hút và sử dụng trí thức, nhất là trí thức xuất sắc của một số quốc gia. Người ta đưa ra 3 nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách thu hút trí thức KHCN, đó là được đãi ngộ, được tôn vinh và được thực hiện hoài bão sáng tạo. Các nghiên cứu cho thấy, đối với nhà khoa học chân chính, việc được hoạt động sáng tạo là khát vọng mạnh mẽ nhất. Thứ đến là được xã hội ghi nhận, tôn vinh thành tựu của nhà khoa học đó. Cuối cùng mới là sự đãi ngộ vật chất để sống và lao động sáng tạo.
Thứ hai, khuyến khích các doanh nghiệp trực tiếp đầu tư nghiên cứu KHCN, lấy tinh thần đổi mới sáng tạo, dựa vào KHCN để nâng cao tính cạnh tranh.
Vừa qua một số tập đoàn kinh tế như Vingroup, Viettel... đã hình thành một số tổ chức KHCN tập hợp nhân lực KHCN ưu tú, trẻ tuổi được đào tạo tại Việt Nam và các quốc gia tiên tiến. Các tập đoàn kinh tế đã đầu tư mạnh, triển khai chế độ đãi ngộ và tạo môi trường nghiên cứu hiện đại, tiêu chuẩn quốc tế. Một số nghiên cứu đã và đang đi vào ứng dụng. Đây là điều đáng mừng và cần được đẩy mạnh trong thời gian tới.
Thứ ba, cần có sự phân vai và liên kết trong hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo. Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng, Nhà nước tạo cơ chế, môi trường thuận lợi, thực thi chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Còn doanh nghiệp phải trực tiếp đầu tư phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo, từ đó có thể nhanh chóng thương mại hóa các nghiên cứu KHCN, nâng cao năng lực cạnh tranh. Không chỉ các doanh nghiệp lớn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần được tạo điều kiện ứng dụng công nghệ mới, tham gia cung ứng các linh kiện, phụ tùng, hàng hóa có hàm lượng KHCN cao, và tạo nhiều việc làm cho xã hội.
Trân trọng cảm ơn ông!
Hoàng Giang (thực hiện)
Theo chinhphu.vn