Cần nhân rộng việc sử dụng năng lượng mặt trời
Việc đun nước nóng bằng nguồn năng lượng này đã được một số nước như: Trung Quốc, Nhật Bản, Austra-lia, Israel… sử dụng và đang là những nước đi đầu trong lĩnh vực công nghệ này. Ở Việt Nam, từ những năm cuối thé kỷ 20 cũng đã nghiên cứu và ứng dụng thiết bị đun nóng bằng NLMT nhưng cho đến nay công nghệ này vẫn xa lạ với người dân. Gần đây, do thiếu điện nghiêm trọng, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) đã phải thực hiện cắt điện thường xuyên, đòi hỏi các nhà quản lý đã phải quan tâm tới các loại năng lượng tái tạo, nên việc sử dụng NLMT lại càng được chú ý hơn.
Hiện nay, tuy còn ít, nhưng đã có một số đơn vị đã thành công trong việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ này, tiêu biểu là công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Năng lượng Mặt trời Bách Khoa (BK-IDSE), thuộc trường Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh.
Sản phẩm đun nước nóng bằng NLMT Scolar-BK của công ty đã được lắp đặt tại một số khách sạn ở thành phố Hồ Chí Minh và ở các gia đình của làng Bình Kỳ, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng. Đặc biệt, thành phố Đà Lạt - một thành phố Đà Lạt - một thành phố mỗi năm có tới 6 tháng mùa mưa và người dân phải mặc áo ấm gần như quanh năm, tưởng như sử dụng nguồn NLMT cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày là điều tưởng chừng không thể làm được, lại có kết quả đáng khích lệ.
Nếu nguồn NLMT được đưa vào sử dụng sẽ tiết kiệm lớn cho người tiêu dùng và xã hội. Ước tính sử dụng một thiết bị đun nước nóng bằng NLMT sẽ tiết kiệm được 2500KW điện/năm so với các thiết bị chạy bằng điện có cùng chức năng. Theo các chuyên gia thì đun nước nóng bằng NLMT không chỉ tiết kiệm đối với các nhà hàng, khách sạn, công nghiệp dệt, chế biến thực phẩm, hóa chất…khi dùng nước nóng phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Chi phí cho 1 lít nước nóng bằng cách này chỉ mất khoảng 10 đồng/lít rẻ hơn nhiều so với việc đun nước bằng điện hay các loại nhiên liệu như than, gas…
Nếu công nghệ này được mở rộng thì xã hội sẽ giảm đáng kể chi phí đầu tư, mở rộng, xây dựng mới các nhà máy điện cũng như hệ thống truyền dẫn theo công nghệ truyền thống.
Tiện ích của việc sử dụng NLMT đã quá rõ. Nước ta lại có bức xạ NLMT tương đối cao nên nguồn tài nguyên này khá dồi dào. Số ngày có nắng khoảng 300 ngày/năm, số giờ nắng tại miền Bắc khoảng 200 giờ/năm. Còn về công nghệ ứng dụng NLMT, chúng ta hoàn toàn có thể làm chủ được.
Tuy nhiên việc triển khai công nghệ này ở nước ta lại rất chậm. mãi đến năm 2008 công nghệ này mới được chú ý và triển khai ở thành phố Đà Lạt, làng Bình Kỳ và gần đây toàn bộ quần đảo Trường Sa với sự giúp đỡ của BK-IDSE đại học Bách Khoa. Các địa phương khác cũng chỉ có một vài cơ sở ứng dụng công nghệ này. Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa là những địa phương tham gia đề án của Trung tâm tiết kiện năng lượng Hà Nội về lắp đặt thí điểm thiết bị đun nước nóng bằng NLMT thì mới xây dựng được gần 100 điểm ứng dụng. Ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng mới có Khách sạn Majectie (Sài Gòn Tourist) là đơn vị đi tiên phong ứng dụng.
Tuy trong nước chưa mặn mà lắm với công nghệ này nhưng mới đây Công ty Summark Vin, một doanh nghiệp nước ngoài đã khánh thành nhà máy sản xuất tấm năng lượng Mặt trời có vốn đầu tư 100% của Đan Mạch đi vào hoạt động tại khu công nghiệp Mỹ Phước 3 tỉnh Bình Dương với tổng số đầu tư nhà máy là 4 triệu USD. Nhà máy được thiết kế công suất 250.000 - 400.000 m 3/năm, dây chuyền thiết bị theo tiêu chuẩn công nghệ Đan Mạch, song sản phẩm này lại giành tới 90% để xuất khẩu sang châu Âu.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là:
Nhận thức của cộng đồng về vấn đề này còn hạn chế. Mặc dù trong luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí có quy định về vấn đề tái sử dụng tài nguyên và các nguồn năng lượng như Nhà nước khuyến khích tổ chức cá nhân tái chế, tái sử dụng tài nguyên và các nguồn năng lượng có thể tái tạo được. Nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa làm tốt việc tuyên truyền để người dân biết hiệu quả kinh tế, để ứng dụng vào cuộc sống.
Cải cách chính sách, giải pháp khuyến khích của Nhà nước phát triển các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo chưa đủ mạnh, nên các hoạt động nghiên cứu ứng dụng vẫn mang tính chất nhỏ lẻ và manh mún.
Chi phí đầu tư ban đầu cho thiết bị và ứng dụng công nghệ khá cao (khoảng 5 triệu đồng/thiết bị, thời gian sử dụng thiết bị này là 15 năm). Nếu so sánh kinh phí bỏ ra để mua nhiên liệu hay điện để đun nước thì sử dụng công nghệ này rẻ hơn rất nhiều, nhưng vốn bỏ ra ban đầu lớn nên vượt khả năng đầu tư của các hộ gia đình nông dân.
Do đó, Nhà nước và các cơ quan quản lý cần có chính sách tuyên truyền khuyến khích việc nghiên cứu ứng dụng, triển khai những mô hình lắp đặt thí điểm và có thể hỗ trợ một phần kinh phí cho những hộ dân tiên phong áp dụng công nghệ trên.








