Cần một "sân chơi" công bằng
Mỗi năm nhà nước tốn hàng nghìn tỷ đồng cho công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ nhưng trong lĩnh vực quan trọng nhất là nông nghiệp nhiều nơi nông dân vẫn sử dụng những phương pháp canh tác lạc hậu, đôi tay của người nông dân chưa được giải phóng; năng suất chất lượng nông sản thấp, chưa có sức cạnh tranh. Trong khi chính những giải pháp tưởng như đơn giản, thô sơ của nông dân lại khiến họ và những vùng quê đổi đời. Vì vậy, tôi nghĩ phải có chế độ ưu đãi riêng cho những sáng kiến như thế này. Chúng ta cũng cần thay đổi cách nhìn về nghiên cứu khoa học - công nghệ, nên nhìn vào sức sống của một công trình hơn là nhìn vào những cái tên đề tài hoành tráng.
Bản thân những nông dân khi sáng tạo ra máy hút bùn, máy tẽ ngô, máy bơm nước… có lẽ cũng không nghĩ mình sẽ nổi tiếng. Bởi đơn giản họ sáng chế vì không chấp nhận một nền nông nghiệp ngày càng phát triển nhưng nông dân vẫn cứ cặm cụi bằng sức lao động tay chân, vừa cực khổ vừa kém năng suất. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một cơ chế nào giúp họ, nói rộng ra là chủ trương xã hội hoá công tác nghiên cứu khoa học công nghệ dù đã được “nhóm” lên nhưng cơ quan quản lý lại cho rằng việc tạo cơ chế giúp những nông dân này không thuộc thẩm quyền.
Những nông dân “bay”
Phải mất đến hơn 4 năm mày mò nghiên cứu, ông Nguyễn Tất Hải ở xã Đồng Hợp (Quỳ Hợp - Nghệ An) mới cho ra đời chiếc máy bơm nước đạp chân mang tên Đồng Hợp I với những tính năng ưu việt hơn hẳn những chiếc máy đang có trên thị trường. Chỉ cần một lực tác động hơn 8kg là máy có thể hoạt động được, không tốn nhiên liệu, phù hợp với mọi loại địa hình. Năng suất cấp nước của chiếc máy này là 15m 3/giờ, gấp 2 lần máy bơm Trung Quốc công suất 370kW và bằng 8 người tát gầu sòng. Sau Đồng Hợp I, ông Hải tiếp tục cho thử nghiệm thế hệ thứ II, III. Máy bơm Đồng Hợp II sử dụng 8 xi lanh bơm nước, gấp đôi so với máy Đồng Hợp I. Tuy nhiên, nó có thể tách làm hai bộ phận gọn nhẹ, có thể vận chuyển đi bất cứ đâu và năng suất cấp nước cao gấp đôi Đồng Hợp I (khoảng 30m 3/giờ). Chiếc máy đạp chân thế hệ thứ III (Đồng Hợp III) chỉ sử dụng có 2 xilanh nhưng lại rất thích hợp với những vùng địa hình cao, đồi núi chia cắt. Giá thành của những chiếc máy này cũng siêu rẻ, khoảng 200.000 đồng/chiếc. Quan trọng là, từ ngày có máy bơm nước “made in ông Hải” bà con xã Đồng Hợp và nông dân quanh vùng không còn phải chịu cảnh mùa màng thất bát do không tưới được nước vì địa hình quá cao.
Gần đây ở thị trấn Chơn Thành (Chơ Thành - Tây Ninh), bà con lại trầm trồ thán phục vì “cậu Bảy Muỗi” Nguyễn Quốc Trung đã sáng chế thành công máy diệt côn trùng và muỗi. Đó là chiếc máy nhỏ gọn vừa làm quạt mát trong gia đình vừa diệt muỗi, côn trùng hại lúa và hoa màu. Nguyên lý hoạt động của máy dựa trên nguyên tắc điện cực đặt xen kẽ nhau trong điện trường một chiều tần số cao. Cánh quạt phía trước hút gió vào máy từ cửa ở phía sau. Khi luồng gió đi qua lưới điện cực sẽ xảy ra quá trình tổng hợp ôzôn và nhiều iôn âm, sau đó thổi ra phía trước. Con muỗi lọt vào từ cửa phía sau sẽ bị nổ tung; nếu bay từ phía trước thì bị luồng gió mang nhiều iôn âm và ôzôn làm cho tê liệt mà chết.
Để làm ra chiếc mày này, anh Trung phải mất bốn năm “hiến thân mình cho muỗi cắn” để thử nghiệm. Trời chập choạng tối, người ta thấy anh ngồi thu mình cùng với chiếc máy sau vườn mặc cho muỗi chích, hôm sau lại đem máy ra cân chỉnh, cải tiến cho hoàn hảo. Sau khi đã hoàn thành, anh ôm máy về tận Long An, đặt tại ruộng của một người quen thử tìm giải pháp diệt côn trùng. Lạ thay, trời vừa chập choạng tối, đèn cực tím được bật lên, một lúc sau máy đã đầy ắp các loại côn trùng như phù du, rầy nâu, bọ xít…
Không thể kể hết những ước mơ cháy bỏng của người nông dân và những sáng chế để đời. Ở đồng bằng sông Cửu Long có ông Ba Vũ ở xã Phú Quới (Long Hồ - Vĩnh Long) tự viết sách về kinh nghiệm và kỹ thuật nuôi ba ba; ông Đỗ Quý Hạo ở xã Mỹ Hiệp Sơn (Hòn Đất - Kiên Giang) với quyết tâm lập phòng thí nghiệm giữa đồng để tạo ra những trái dưa hấu ngon, hình thức mẫu mã đẹp và nhiều nông phẩm an toàn cho người tiêu dùng, tiến đến xuất khẩu. Anh Trần Quốc Hải ở ấp 2, xã Suối Dây (Tân Châu - Tây Ninh) với ước mơ làm trực thăng không người lái. Ông Huỳnh Thái Dương ở xã Hàm Đức (Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận) ước mơ sau máy tách hạt ngô (bắp) sẽ nghiên cứu tiếp để chế tạo máy tách hạt mè (vừng). Anh Nguyễn Phi Sinh ở xóm Đồng, xã Dương Liễu (Hoài Đức - Hà Tây) với công trình biến rác thải thành phân bón sạch… Tất cả những sáng chế này đều xuất phát từ thực tiễn đời sống, vì vậy khi ứng dụng, chúng được bà con nông dân đón nhận rất nhiệt tình. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa có một cơ chế nào từ phía quản lý Nhà nước để hỗ trợ, động viên và khuyến khích họ say mê hơn với công việc sáng chế. Rõ ràng, chủ trương xã hội hoá công tác nghiên cứu khoa học công nghệ dù đã được coi là đổi mới nhưng làm vẫn chưa đến nơi.
Xã hội hoá chưa triệt để
Khi chúng tôi đem những câu hỏi về một giải pháp giúp nông dân phát huy những sáng kiến cải tiến kỹ thuật của mình, một vị cán bộ thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ, cơ quan chủ quản về công tác nghiên cứu khoa học cho biết, hiện vẫn chưa có cơ chế nào dành cho những nông dân sáng chế. Ngành chỉ quản lý những công trình nghiên cứu mang tầm cỡ nhà nước. Nhưng có một nghịch lý là hầu hết những công trình “tầm cỡ quốc gia” phải nằm lại trong phòng thí nghiệm vì khó thích ứng hoặc quá đắt đối với người nông dân. Tuy vậy, “đến hẹn lại lên”, mỗi năm ngân sách nhà nước chi hàng ngàn tỉ đồng phân bổ theo kiểu “đầu đen” cho mỗi viện, trung tâm nghiên cứu vài ba đề tài để “nuôi” nhau. Có những đề tài sau một vài lần báo cáo trước các hội thảo khoa học rồi nằm trong tủ. Chưa kể một số công trình khi đem ra ứng dụng, không những không phát huy tác dụng mà còn làm thiệt hại cho bà con nông dân. Những thiệt hại này đều được đổ cho “khách quan, hoàn cảnh” hoặc “không áp dụng đúng quy trình kỹ thuật” còn trách nhiệm của chủ đề tài dường như không ai nói đến. Hàng năm, tiền vẫn cấp, các nhà khoa học vẫn nghiên cứu, công trình vẫn hoàn thành, được chứng nhận này nọ nhưng người nông dân không thể với tớivì những lý thuyết quá xa xôi.
Trở lại với những “nhà sáng chế chân đất”, hầu hết họ khi nghiên cứu đều gặp rất nhiều khó khăn về vốn, kiến thức sách vở,… kinh nghiệm mà họ có chỉ có thể tạo nên những chiếc máy xù xì, thô kệch nhưng khi “bước” vào cuộc sống, chất lượng, giá cả đã cứu sống chính bản thân nó. Anh Nguyễn Quốc Trung than, anh đang dự kiến làm thêm nhiều chiếc máy diệt côn trùng chuyên phục vụ cho sản xuất lúa sạch nhưng rất khó khăn trong vấn đề vốn. “Để đăng ký sở hữu chiếc máy diệt muỗi và côn trùng này, cơ quan chức năng “đòi” phải đóng lệ phí 7-8 triệu đống rồi chờ 18 tháng sau mới có kết quả. Khoản tiền này đối với tôi quá cao, không chịu nổi” - anh Trung nói. Việc đăng ký bản quyền là việc khó khăn cho rất nhiều “nhà sáng chế nông dân”. Ông Hải cũng năm lần bảy lượt, mòn dép ở cơ quan chức năng mới lấy được bản quyền hợp pháp bộ ba máy bơm Đồng Hợp về cho mình; ông Huỳnh Thái Dương cũng bị “nhòm ra, ngó vào” rồi mới được cấp. Thậm chí anh Hải, đang cho chạy thử nghiệm chiếc trực thăng đầu tiên thì bị giữ lại “để đảm bảo an ninh trật tự” và “làm trực thăng có âm mưu gì”. Theo PGS.TS Bùi Cách Tuyến, Hiệu trưởng Trương ĐH Nông - Lâm TP Hồ Chí Minh: “Đã đến lúc chúng ta cần có cái nhìn công bằng hơn về nghiên cứu khoa học - công nghệ. Nhiều nước trên thế giới, bất kể anh là ai nhưng công trình của anh được thực tiễn chấp nhận thì sẽ được hưởng mọi chế độ ưu đãi. Nhưng ở ta, nhiều vụ - viện chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước, có những cán bộ nghiên cứu chỉ giữ chân “biên chế” trong cơ quan còn dành thời gian đi làm thêm. Trong khi những nông dân có đầu óc, chỉ vì thiếu tấm bằng mà không được trọng dụng; phải cầm cố nhà cửa, ruộng vườn để nghiên cứu.
Nghị định 115/2005/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 5/9/2005có thể coi là “khoán 10” cho các nhà khoa học. Thay vì cơ chế phân bổ “đầu đen” trước kia, các cơ quan nghiên cứu công lập phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải kinh phí, chủ động trong nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một văn bản nào mang tính pháp quy hướng dẫn về những chính sách ưu đãi, đãi ngộ với những nhà nông, người bình thường nghiên cứu khoa học. Khi được hỏi cần gì ở các cơ quan quản lý nhà nước, ông Hải nói, chỉ cần vốn và giảm bớt những thủ tục hành chính rườm rà trong khâu đăng ký bản quyền. “Chúng tôi cần một sân chơi công bằng hơn” - ông Hải nói. Còn bản thân họ không phải sáng chế ra để nhân thành tích, giải thưởng mà chỉ ước mơ sáng tạo để đổi đời cho mình và hàng triệu số phận như họ. Những công trình đó, họ không giấu giếm, truyền hết cho mọi người vì đơn giản họ là… nông dân.
Nguồn: Kinh tế nông thôn, số 10 (496), 6/3/2006