Cần coi trọng người trồng lúa
Theo các chuyên gia, chính sách lúa gạo của Việt Nam đang đẩy nông dân xuống vị trí cuối bảng về lợi ích. Muốn có những hạt gạo chất lượng làm tiền đề cho việc xây dựng thương hiệu Gạo Việt Nam cần phải nâng cao vị trí người trồng lúa cũng như quan tâm tới lợi ích của họ nhiều hơn.
Báo cáo “Phân tích hệ quả can thiệp chính sách với các tác nhân trong chuỗi xuất khẩu gạo và tôm tại Việt Nam” của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương năm 2011 đã đưa ra nhận định, “giá gạo và thời điểm xuất khẩu gạo thực sự có vấn đề”.
Ghi nhận của nhóm nghiên cứu qua khảo sát ở An Giang, tỉnh có sản lượng lớn ở vựa lúa xuất khẩu đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), thì mỗi khi Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) ngừng xuất khẩu là nông dân bị thua lỗ, lúa xuống giá, điều đó cho thấy, có nhiều khả năng VFA là người quyết định giá sản phẩm. Lưu ý tháng 4/2008, trong lúc giá gạo thế giới cao kỷ lục chưa từng có là 1.200 USD/tấn, VFA công bố ngừng ký hợp đồng xuất khẩu. Vụ lúa Hè Thu và lúa vụ 3 ở ĐBSCL năm đó bị ứ đọng nghiêm trọng. Nhờ vậy, các thành viên VFA vẫn có thể mua lúa gạo với giá rẻ người trồng lúa thì lỗ.
Nhiều năm qua, VFA chiếm vị trí chủ đạo trong hoạt động xuất khẩu gạo đã gây nên nhiều tranh cãi. Nhiều ý kiến cho rằng, VFA hầu như chỉ chú trọng tới chỉ tiêu xuất khẩu Chính phủ giao và quan tâm lợi ích của các doanh nghiệp thành viên. Mãi tới vụ Hè Thu 2009, theo yêu cầu của Chính phủ, VFA mới áp dụng mua lúa gạo theo giá sàn, bảo đảm nông dân có lãi 30%. Tuy vậy, có ý kiến nhận xét, hành động này của VFA cũng chỉ mang tính hình thức còn trên thực tế việc thu mua lúa gạo của VFA vẫn tiếp tục có vấn đề và không có chế tài nào đảm bảo cho người trồng lúa có lãi 30% như mong muốn của Chính phủ.
Sản xuất và lưu thông lúa gạo ở vùng ĐBSCL từ lâu được giới chuyên môn đánh giá là một hệ thống bất hợp lý nhưng vẫn tồn tại. Có quá nhiều trung gian trước khi hạt gạo được bán ra nước ngoài, và người nông dân luôn bị xếp ở cuối bảng của chuỗi giá trị cũng như thứ hạng về lợi ích.
Theo tính toán của các chuyên gia, trong cả chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ lúa gạo, nông dân đảm trách 50% công việc, những người buôn bán chỉ làm 10% công việc nhưng lại hưởng tới 70% giá trị gia tăng. Nông dân không có quyền mặc cả trên thị trường; quan hệ giữa doanh nghiệp với nông dân đang diễn ra thiếu công bằng. Những mặt yếu khác của sản xuất lúa gạo xuất khẩu ở Việt Nam là tư duy tiểu nông, người nông dân không tập họp lại được với nhau và không có tiếng nói đủ uy thế về sản phẩm mình làm ra. Đó cũng chính là hệ lụy của chính sách hạn điền, cũng như từ các bất cập khác về chính sách đất đai đối với người nông dân khiến họ chưa bao giờ thực sự yên tâm đầu tư một cách bài bản và lâu dài trên mảnh đất của mình.
Theo GS.TS Bùi Chí Bửu, Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam : “Bà con nông dân mình thì ruộng đất manh mún, quy mô đồng ruộng bây giờ tính bình quân khoảng ba ngàn đến năm ngàn mét vuông cho một nông hộ, thì rất khó có thu nhập cao được. Xuất khẩu nhiều nhưng đời sống nông dân không được cải thiện”.
Phân tích của các nhà nghiên cứu cũng cho thấy, nguồn vốn đầu tư vào trồng lúa cũng rất hạn chế, chỉ có số ít nông dân thế chấp sổ đỏ để vay vốn ngân hàng, đa số nông dân không có vốn, phải mua chịu giống lúa, phân bón thuốc sâu và trả nợ vào cuối vụ khi bán lúa. Khi được hỏi về chính sách đảm bảo người trồng lúa có lãi 30%, nông dân thắc mắc: “Nhà nước cho doanh nghiệp vay không có lãi để thu mua lương thực cho dân, như vậy sao không cho nông dân vay khỏi lãi đi, đồng vốn sẽ về tay nông dân”.
Cần phải có chính sách hợp lý cho người trồng lúa, chia lợi nhuận công bằng cho nông dân, đó là điều mà các nhà nghiên cứu chính sách về phát triển bền vững cho ngành lúa gạo Việt Nam đề xuất. Các chính sách phải đem lại sự an tâm sản xuất cho bà con nông dân, cũng như làm sao để tăng chuỗi giá trị hạt gạo và chia lợi nhuận chuỗi giá trị gia tăng một cách đồng đều phù hợp công sức người trồng lúa. Sản xuất lúa bền vững đòi hỏi năng suất, chất lượng lúa ổn định cho từng vụ, từng năm và trong nhiều năm tới. Thu nhập, lợi nhuận và đời sống nông dân phải được nâng cao; giảm thiểu sự suy thoái về đất đai canh tác, nguồn nước phục vụ sản xuất và tiêu dùng, sức khỏe người trồng lúa được bảo vệ; đời sống văn hóa - xã hội nông thôn được cải tiến.
Để tạo ra sự bền vững này, đòi hỏi nhiều chương trình, giải pháp, chính sách hỗ trợ, sự đồng bộ trong sản xuất, tiêu thụ, bảo vệ sức khỏe người dân và môi trường. Điều đó liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và phải thực hiện các bước đi, giai đoạn thích ứng với trình độ và sự phát triển của người dân trong vùng. Nông dân phải được đào tạo về chuyên môn, kết hợp với các kiến thức về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, kiến thức về y tế và sức khỏe cộng đồng. Ngoài ra, sản xuất lúa gạo hàng hóa ở ĐBSCL phải hướng đến sản xuất tập trung, có sự liên kết giữa nông dân - nông dân và nông dân - doanh nghiệp.
GS.TS Võ Tòng Xuân đề xuất Chính phủ cần sớm có chính sách “Nông nghiệp thời WTO”, nhằm có mức đầu tư đúng và phù hợp với giai đoạn hiện nay, chứ không thể để nông dân “tự bơi”. Nông dân phải tham gia vào cụm liên kết và được đào tạo kỹ năng sản xuất theo các quy trình cần thiết; được đầu tư để có đủ năng lực sản xuất hàng hóa theo yêu cầu của thị trường, đặc biệt là thị trường khó tính, bán được hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Muốn vậy, Nhà nước cần có một hệ thống chính sách nhất quán, đồng bộ nhằm khuyến khích sự liên kết trong suốt chuỗi giá trị lúa gạo, từ sản xuất, chế biến đến phân phối ra thị trường.








