Cách mạng Tháng Tám: Dân chủ, dân chủ hơn nữa!
Hiệu lệnh của thời đại
Trong sách “Hồ Chí Minh - một hành trình”, tác giả Lady Borton nhận định: “Cuộc giành chính quyền tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là sáng tạo độc đáo trong lịch sử thế giới. Đó là cuộc nổi dậy sâu rộng được toàn dân tham gia, cuộc cách mạng thắng lợi nhưng không đổ máu”.
Với tôi, khởi nghĩa thành công của Hà Nội làm sạt lở quan điểm “bạo lực là bà đỡ cho cách mạng”, nói nôm na, phàm là giành chính quyền, cứ phải thông qua con đường bạo lực.
Một trong những lãnh đạo khởi nghĩa ở Hà Nội (về sau phụ trách tình báo chiến lược cho Cụ Hồ cho đến 1968), ông Lê Trọng Nghĩa bảo tôi: “Chính tinh thần dân chủ là đảm bảo thắng lợi cho giành chính quyền ở Hà Nội”.
Các bậc lão thành kể, người quyết định tiến hành khởi nghĩa là ông Nguyễn Khang, lúc đó là Thường vụ Xứ ủy. Ông Khang không ra mặt vì là cộng sản.
Ông Nghĩa (ông Lê Trọng Nghĩa) cũng cộng sản, nhưng trước công luận, ông là người lãnh đạo Dân chủ đảng. Đây là đảng của các nhân sĩ trí thức, sinh viên, học sinh yêu nước lập ra theo chủ trương của Cụ Hồ năm 1944. Vì thế, ông Khang lệnh cho ông Nghĩa “nếu mít tinh ở Nhà Hát Lớn tiến triển thuận lợi thì phát lệnh khởi nghĩa”.
Giành được diễn đàn, các chiến sĩ dân chủ kêu gọi dân chúng ngả theo Việt Minh. Ông Nguyễn Đình Thi kể lại, ông Nghĩa, quyết đoán về tư tưởng, nhưng đã “vụng về” bắn chỉ thiên một phát súng ngắn, chính thức phát lệnh khởi nghĩa.
Lực lượng ở Hà Nội lúc đó, cả nội ngoại thành chỉ có được dăm chục khẩu dóp năm, dóp ba… không thể đấu với xe tăng của Nhật.
Nhưng khẩu súng ngắn, lúc đó trị giá cả gia tài, là do ông Lê Đức Thọ giao cho ông Nghĩa từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp. Các tự vệ nội ngoại thành Hà Nội chắc lúc đó cũng đâu quen bắn súng, lại hầu như chân đất, nhưng có cái đầu tỉnh và trái tim quả cảm, nên đã thắng.
Sau này, ông Nghĩa nói, chính bài “Diệt phát xít” đã tạo men say cho ông và những người khởi nghĩa. “Tiến lên nền dân chủ cộng hoà, giành lại áo cơm tự do” là hiệu lệnh thời đại.
Gương mặt người chiến thắng
Lúc nhỏ, tôi nhận thấy ông Ngọc, chồng cô Thanh bạn mẹ tôi chẳng có gì đặc biệt. Đeo kính cận dày cộp, ông có vẻ bỡ ngỡ giữa thế nhân. Hóa ra, ông Ngọc chính là người đã vác cờ đỏ sao vàng vào người, leo qua cổng Phủ Khâm sai (nay là Nhà Khách chính phủ), trong lúc Bảo an binh súng ống tua tủa bên trong. Bảo an binh, vốn đã giao động vì Khâm sai Phan Kế Toại từ nhiệm (sau mấy lần gặp ông Lê Trọng Nghĩa) vì hành động đó đã ngả hẳn theo cách mạng.
Ở Trại bảo an binh, Nhật đã phái xe tăng tới cố thủ. Và trên đường Hàng Bài, 5 thiếu nữ Hà Nội mặc áo dài, trong đó có cô Tuyết Minh bạn mẹ tôi (sau này là “chính uỷ nữ” đầu tiên và duy nhất của Quân đội Việt Nam - chính trị viên tiểu đoàn 102, trung đoàn Thủ đô đầu kháng chiến) đã “tươi như hoa” chặn xe tăng Nhật trong nỗ lực “binh vận” đầu tiên. Ông quản Liên, sau cách mạng phụ trách đoàn quân nhạc, nhớ lại: “Tưởng Việt Minh là ai, hoá ra mấy nữ sinh Đồng Khánh cành vàng lá ngọc”.
Thuyết phục được quân Nhật để cho quân cách mạng làm chủ Trại bảo an binh, ông Nghĩa thấy một viên sĩ quan Nhật quay lại “hẹn” ông tới Bản doanh quân Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão), nói chuyện. Cuộc đấu trí diễn ra giữa “những người nổi loạn”, cựu sinh viên Hà Nội Lê Trọng Nghĩa và nhà Marxist kỳ cựu Trần Đình Long, với các tướng soái “Thiên Hoàng” mặt sắt, gươm súng sáng loè, khá gay go. Cuối cùng, quân Nhật chịu để cho người Hà Nội làm chủ thành phố của họ.
Dân chủ, dân chủ hơn nữa
Khi nghiên cứu vấn đề giao liên trong cách mạng Việt Nam, học giả Anh Virginia Morris rất quan tâm tới khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội năm 1945. Bà cho rằng, các giao thông viên chân đất đã không thể chuyển đạt kịp thời các công văn giữa Trung ương ở Tân Trào và Hà Nội, trong những ngày nước sôi lửa bỏng. Nhưng, theo bà Virginia Morris, sự liên kết giữa Việt Minh và lực lượng đồng minh (nhóm “Con Nai”) trước đó, đã làm cho quân Nhật nhầm trong việc định cỡ (gauge) sức mạnh vũ trang của Hà Nội.
Sáng sớm 20/8, tiếng súng đánh trại Nhật ở Thái Nguyên đã làm không chỉ Bộ chỉ huy Nhật ở Hà Nội, mà cả chính quyền cách mạng Hà Nội vừa qua đêm đầu tiên thức trắng, phải giật mình. Theo ông Nghĩa, người Nhật chợt hiểu ra rằng Hà Nội vừa giành chính quyền bằng quyết tâm chính trị của mỗi người dân. Đã có những công văn xin chỉ thị từ Tokyo nhưng sau sự đã rồi của ngày hôm trước, chúng đã lạc loài trong đám tro tàn của bom nguyên tử.
Và khi khấp khởi đón Cụ Hồ về Hà Nội hôm 25/8, lãnh đạo khởi nghĩa đã rất lo lắng vì đã hành động mà chưa kịp nhận phê chuẩn của Trung ương. Cụ Hồ làm mọi người sốc, với khẩu hiệu: “Độc lập, độc lập hơn nữa. Dân chủ, dân chủ hơn nữa”.
Tác giả William J. Duiker trong khi lục lọi hồ sơ những ngày Tân Trào, đã tìm được một chỉ thị của Cụ Hồ quan trọng ra ngày 16/8. Duiker viết trong “Hồ Chí Minh - một cuộc đời”:
“(Phát biểu trước các đại biểu Quốc dân Đại hội) Hồ Chí Minh khẳng định lại điều quan trọng là phải nhanh chóng giành chính quyền để có thể đón tiếp quân chiếm đóng Đồng Minh trên thế mạnh. Buộc phải đối phó với quân Nhật, nhưng cần cố thuyết phục họ, nếu có thể…”
Phát biểu đó đã không đến được tay ông Nguyễn Khang và Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội, những người đã đi đến cái quyết định long trời lở đất vào ngày 17/8. Có lẽ, các tư tưởng lớn thường gặp nhau, kể cả bằng thần giao cách cảm.
Như Georges Bouldarel đã khái quát trong Lời tựa cuốn “Ngọn cờ chiến tranh nhân dân và đường lối quân sự của Đảng” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (NXB PRAEGER, Hoa kỳ 1970):
“19 tháng Tám, khi quân của Tướng Giáp tiến về đánh Thái Nguyên, một cuộc nổi dậy đã dẫn đến lật đổ chính phủ thân Nhật ở Hà Nội. Đó là một thử nghiệm thành công, là cuộc cách mạng theo kiểu mới, riêng có của Việt Nam. Các thành phố không bị nông thôn bao vây, chúng đã vùng lên, đã tự chín muồi trên ý nguyện của chính mình.
Tuy vậy, việc cướp chính quyền ở thành thị không thể đạt được nếu không có sức hút mạnh mẽ và cảm hứng cách mạng truyền đến từ căn cứ địa Việt Bắc… Với thời gian, tính chất độc đáo của cách mạng Việt Nam sẽ trở nên không thể biện bác”.








