Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 29/03/2006 00:52 (GMT+7)

Buôn bạc ở Đông Dương - Một vụ tham nhũng lớn

Vụ này đã được đánh giá là kéo dài nhất, gây thiệt hại cho ngân quỹ nhiều nhất, liên quan đến nhiều người nhất, đấy là chưa kể đến cái giá xương máu mà nhân dân Pháp phải gánh chịu (tất nhiên ở đây không nói đến phía Việt Nam). Chúng tôi xin tóm tắt diễn biến của vụ tham nhũng lớn đó như sau:

Ngày 23-12-1945, Bộ trưởng Tài chính của Chính phủ lâm thời do tướng de Gaulle đứng đầu là René Pléven đã ấn định tỉ giá của đồng bạc Đông Dương là tương đương với 17 franc, so với tỉ giá 10 franc được duy trì trước và trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Ai cũng biết rằng đây là một tỉ giá tưởng tượng, vì ở Sài Gòn một đồng bạc Đông Dương chỉ đổi được từ 7 đến 10 franc. Đồng bạc Động Dương được nống tỉ giá lên như vậy đã làm cho tiền lương và phụ cấp của người Pháp và những người làm việc cho Pháp ở Đông Dương tăng lên gấp bội, vì họ được trả bằng đồng bạc chứ không phải bằng franc. Ngoài ra, nó còn giúp cho việc phục hồi kinh tế của Pháp ở Đông Dương khi Pháp mới quay trở lại sau chiến tranh thế giới, hoạt động của các đồn điền Pháp được đẩy mạnh nhờ việc xuất khẩu về chính quốc trở nên có lợi hơn.

Nhưng nó còn là nguyên nhân của những vụ buôn bán đem lại nhiều lợi nhuận. Thật vậy, tất cả mọi tổ chức hay cá nhân được phép chuyển tiền Đông Dương về Pháp hay ngược lại, đều thu được một số tiền chênh lệch từ một đến gấp đôi giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá thực tế trên thị trường.

Một số ngân hàng được uỷ nhiệm, trong đó có Ngân hàng Đông Dương, nơi được đặc quyền phát hành đồng bạc Đông Dương, là những cơ sở duy nhất được phép thực hiện dịch vụ chuyển tiền theo một thoả thuận của Sở hối đoái Đông Dương. Nhưng cơ quan này lại là một tổ chức vụ lợi, thiếu sự kiểm soát và thiếu nhân viên thạo việc.

Do vậy mà từ năm 1947 đến 1949, số tiền chuyển khoản được phép đã tăng từ 32 đến 112 tỉ franc, rồi đạt tới 254 tỉ năm 1952, trong đó có khoảng 10% đến 15% là những vụ chuyển tiền không khai báo với Sở hối đoái. Như vậy là không có một số liệu nào về những dịch vụ chuyển tiền bí mật.

Số tiền tỉ đó đã làm lợi cho cánh quân nhân và viên chức, nhưng chủ yếu là lợi cho những tổ chức tài chính và các công ty xuất khẩu cao su, hồ tiêu, gạo, thiếc về chính quốc. Nó giúp cho nhiều nhà buôn thu được những món lợi khổng lồ, nhưng cũng giúp cho ông vua Bảo Đại và gia đình ông, cùng những thành viên của chính phủ bù nhìn Việt Nam có cơ hội làm giàu (280 triệu lần chuyển tiền được phép từ 1947 đến 1949). Ngoài ra nó còn làm lợi cho những tập đoàn người Hoa có chi nhánh ở Hồng Kông, Chợ Lớn và ở châu Âu. Từ bạc Đông Dương ở Sài Gòn, chuyển sang Pháp được chuyển đổi thành franc, rồi từ đó đổi thành đôla để đưa đến các ngân hàng Thụy Sĩ, Hà Lan, để rồi lại chuyển về Hồng Kông… Cứ thế mà diễn mãi cái vòng vô tận.

Tiền được chuyển như thế nào?

Khi nói đến một cuộc chuyển khoản 1 triệu đồng bạc Đông Dương của ông X về Pháp, thì có nghĩa rằng khi chi 17 triệu franc cho việc chuyển tiền đó, nước Pháp đã biếu không cho người chuyển tiền từ 8 đến 9 triệu franc. Từ đấy mà gây nên tình hình lạm phát một cách vô ích, làm cho nước Pháp nghèo đi, nhưng túi những quan chức đương nhiệm lại đầy lên.

Trong các vụ chuyển tiền có cả việc mua bán chính trị. Lấy vụ Pignon - Legrand - Morelet làm ví dụ (đã được J.Despuech phanh phui trong cuốn sách của ông). Pignon là Cao uỷ Pháp ở Đông Dương (năm 1948). Đấy là thời kỳ tồn tại nước Cộng hoà Nam Kỳ tự trị, đang chuẩn bị cho cuộc tuyển cử để bầu ra một hội đồng gồm có người Pháp, người Nam Kỳ và vài người Tàu. Có nhiều danh sách đưa ra, trong đó có một danh sách của ông Legrand, chủ tiệm ăn Bodega ở đường Espagne, Sài Gòn. Không hiểu vì lý do gì mà danh sách Legrand - Morelet không được Cao uỷ Pháp đa ra khi bầu cử. Ông Legrand vội đe doạ sẽ kiện về Pháp để được huỷ bỏ kết quả tuyển cử. Việc này có thể gây nguy hại cho tất cả đường lối của Cao uỷ Pignon ở Đông Dương. “Người ta” bèn cử ông cò Bazin “dàn xếp vụ này” (sau đó, ông này bị ám sát chết). Bazin không phải là kẻ ngây thơ, nhất là đối với một tên mật thám già đời ở Đông Dương, y bèn thuyết phục Legrand chớ làm to chuyện, và hứa sẽ “đền bù” bằng cách cho phép Legrand chuyển 5 triệu đồng Đông Dương về Pháp. Nói cách khác, nếu Legrand im mồm, Cao uỷ sẽ nói với Sở hối đoái cấp phép chuyển tiền về Pháp số tiền mà đáng lý ra ông ta không có quyền chuyển là 85 triệu franc.

Như Legrand đã nói sau đó một năm rằng: “Như vậy cũng tốt, việc gì mà bỏ qua. Vả lại, việc đó là chắc chắn nên tôi chấp nhận”. Trong khi dàn xếp, Cao uỷ Pignon quên (?) không nói cho Legrandbiết rằng Pignon không ăn cánh với Rivet, giám đốc Sở hối đoái. Vì vậy, khi Kegrand đưa đơn đến ngân hàng thì bị sở hối đoái từ chối. Thật là chuyện giật gân. Legrand đến Cao uỷ làm ầm lên, nói rằngđã bị đánh lừa! Tuy vậy sự việc có thể dàn xếp được. Người ta gọi điện cho Rivet, ông này hứa sẽ giải quyết. Trong khi đó Legrand cũng suy nghĩ lại, vì lý do này khác, ông quyết định làm nhiều đơnxin chuyển tiền, mỗi lần là 1 triệu đồng. Lần chuyển tiền đầu tiên được trót lọt. Chờ một tháng sau, y lại xin phép, nhưng bị từ chối. Ông lại muốn kêu một lần nữa, nhưng lần này đã bị tống ra khỏicửa. Người ta nói cho ông biết rằng cuộc tuyển cử đã diễn ra lâu rồi, việc kiểm phiếu đã xong, ông ta không còn làm gì được nữa. “Vả lại, ông bạn ơi, ai cũng biết rằng ông đã để người ta mua rồi. Vậythì ông phải hiểu…”.

Việc chuyển tiền còn dính đến nhiều nhân vật cao cấp Việt Nam . Theo báo cáo của Sở hối đoái thì số tiền của họ đã chuyển là như sau:

- Quốc trưởng Bảo Đại và hoàng hậu: 176.500.000 franc.

- Chính quyền Trung ương Việt Nam : 62.600.000 franc.

- Chính quyền Trung phần Việt Nam : 76.000.000 franc.

- Chính quyền Namphần Việt Nam : 6.700.000 franc.

- Các nhân vật chính trị khác: 60.200.000 franc.

- Ông bà Diderot (em rể và em gái hoàng hậu Việt Nam ): 44.700.000 franc.

Cộng năm 1949: 426.700.000 franc.

Có ba loại chuyển tiền như sau:

1. Buôn bạc Đông Dương - Franc - Đôla - Bạc Đông Dương - Franc.

Đây là hình thức chuyển thường xuyên nhất. Nó gồm có việc mua ngoại tệ (thường là đôla Mỹ) ở Pháp theo giá thị trường tự do, đem đến Đông Dương, rồi bán với tỉ giá có thể đem lãi suất lên đến 110 hay 120%. Tất cả chỉ diễn ra trong 15 ngày hay một tháng là cùng.

Ngoại tệ bán ở Đông Dương cho trung gian người Ấn hay người Hoa, họ sẽ bán lại cho Việt Minh bằng bất cứ giá nào, vì Việt Minh cần có ngoại tệ để mua vũ khí.

2. Buôn Franc - Bạc - Franc.

Đây là việc mua bạc Đông Dương ở Hồng Kông, Băng Cốc… với tỉ giá xấp xỉ 8 franc, rồi chuyển về Đông Dương, sau đó chuyển sang Pháp theo tỉ giá hợp pháp 17 franc.

3. Buôn đôla Hồng Kông - Đôla - Bạc - Franc .

Việc này dành cho những nhà buôn kỳ cựu có chân đứng ở Sài Gòn - Chợ Lớn, họ mua đôla Hồng Kông theo tỉ giá chính thức, hay thường được Sở thương mại Đông Dương và Sở hối đoái cho phép xuất hàng hoá mà không phải thu về ngoại tệ. Sau đó mua bạc Đông Dương ở Hồng Kông rồi đem về Đông Dương, để được chuyển sang Pháp theo tỉ giá chính thức.

Tuy nhiên đem đôla vào Đông Dương không phải là dễ. Việc đó bị cấm và còn có hải quan ở các cửa khẩu. Đơn giản nhất là giấu vào dưới đế giày những tờ 1.000 đôla, phụ nữ đến kỳ giấu trong băng vệ sinh, những tờ tạp chí để đôla vào giữa rồi dán hai tờ với nhau. Còn một cách khác là cuộn những tờ 1.000 đôla nhét vào những chiếc ống nhựa nhỏ, mỗi ống có thể nhét 3 tờ. Đi máy bay Constellation chỉ mất có 36 tiếng, gần đến Sài Gòn người chuyển tiền nuốt một hoặc hai ba ống vào bụng. Sau khi qua khỏi hải quan họ sẽ thu hồi lại trong nhà vệ sinh. Cũng có những phi hành đoàn của các hãng hàng không tham gia vào các phi vụ đó.

Cuộc điều tra bắt đầu

Việc buôn bạc ở Đông Dương ai cũng biết, nhất là cơ quan tình báo Pháp cũng thừa hiểu rằng những đối thủ của mình cũng đang lợi dụng việc chuyển tiền đó để tiếp tế vũ khí. Tuy nhiên không ai muốn nói ra. Mãi đến năm 1952, Jacques Despuech, một người Pháp đã từng tham gia kháng chiến chống Đức, nhân viên của Sở hối đoái Đông Dương, sau một thời gian làm việc ở Việt Nam, đã thu thập được nhiều tài liệu liên quan đến các vụ buôn bạc, có dính dáng đến các nhân vật tai to mặt lớn ở Đông Dương và ở Pháp, có ý định viết một cuốn sách vạch trần tất cả những thủ đoạn của các nhà chức trách dân sự, quân sự và tài chính Pháp nhằm duy trì tình trạng trên. Nhưng các quan chức có thẩm quyền ở Đông Dương đã tìm mọi cách ngăn cản không cho ông công bố. Ông bị buộc phải rời Sài Gòn tháng 9-1952, với lời tố giác của một viên chức Cao uỷ Pháp ở Đông Dương nói rằng, ông đã quan hệ với những phần tử đáng ngờ (ý nói là Việt Minh) và tính mạng của ông sẽ bị đe doạ nếu cứ ở lại Việt Nam.

Về đến Pháp, qua một trung gian, J. Despuech được gặp Tổng thống Pháp Daladier để trình bày sự việc trên, tuy rằng ông không mấy tin tưởng khi gặp các quan chức chính phủ. Tuy vậy, khi nói đến cuốn sách đang chuẩn bị, ông đã nhận được lời động viên của Tổng thống: “Đấy là việc duy nhất phải làm, Tổng thống nói. Nếu anh nói với các chính khách thì có khả năng gặp phải chuyện cay đắng, chế độ này thối nát rồi. Anh có biết rằng ở Paris có hàng chục người có thu nhập trên một tỉ franc mỗi năm và không hề phải đóng thuế? Họ dàn xếp với một số luật lệ và cư trú ở Tanger hay nơi khác. Hãy viết cuốn sách đó đi. Nhưng chớ nói với ai”.

Nhưng khi tiếp xúc với một nhân vật cao cấp trong ngành tài chính, J. Despuech lại được giảng giải như sau:

- Tôi đã tìm hiểu rồi, và đã có sự xác nhận. Sỏ dĩ chính phủ không chấm dứt việc buôn bạc này, là vì chính phủ có lợi trong đó. Khi tôi còn làm Phó chủ tịch Hội đồng, tôi nhớ rằng trong một cuộc họp của Hội đồng các bộ trưởng, một đồng nghiệp của ngành tài chính đã thú nhận rằng chính phủ sử dụng đồng bạc đổi 17 franc để bịt những lỗ hổng trong ngân sách.

- Vậy những “lỗ hổng” do đồng bạc gây nên trong tiền tệ thì làm cách nào để bịt lại?

- Việc đó tôi không biết. Có lẽ là in thêm tiền mới (ông vừa nói vừa mỉm cười).

Sau nhiều lần tiếp xúc với các quan chức chính phủ, và đặc biệt là với những nhân vật có liên quan đến Đông Dương, J. Despuech chỉ nhận được lời đe doạ. Một nhân vật dấu tung tích đã nói với J. Despuech rằng họ đã nghe nói ông có những tài liệu về buôn bạc. Nếu quả thật là vậy thì nên đốt nó đi, giữ lại chỉ gây thêm rắc rối. Hay là giao lại cho những người “có thẩm quyền”. Cuốn sách mà ông đang chuẩn bị không được ai chú ý cả. Không một nhà xuất bản nào dám phát hành”. “Anh đã biết sự việc sẽ diễn ra như thế nào rồi đấy. Tất cả các nhà xuất bản ít nhiều đều dính đến cảnh sát”. Có người còn nói: “Hãy nghe đây. Nếu anh cứ giữ ý muốn viết cuốn sách, thì cứ làm đi, nhưng không được kể một tên nào ra. Vụ này vượt quá sức của anh. Anh chỉ làm việc trứng chọi đá. Anh chỉ có một mình và có lẽ là anh trung thực. Nhưng anh không có hy vọng gì cả. Anh sẽ bị đưa vào nhà thương điên, hay gặp tai nạn. Anh có một cô vợ đáng yêu làm sao, lại rất trẻ nữa, anh không muốn cô ta sẽ bị cái gì chứ?”.

Nhưng rồi cuối cùng cuốn sách cũng được xuất bản gây chấn động trong dự luận Pháp. Đúng như lời của một quan chức tài chính đã nói với J. Despuech rằng bất cứ trong trường hợp nào cuốn sách vẫn không thể in được. Làm như vậy là tạo cho những người cộng sản Pháp cơ hội để dùng đại bác 420 nã vào chế độ Cộng hoà. Thực ra, từ năm 1950 một cuộc điều tra của Nghị viện tháng 11-1950 đã bị dẹp đi. Rồi năm 1951, Tổng thống Vincent Auriol đã yêu cầu mở cuộc điều tra nhưng rồi cũng bị xếp xó. Người ta lấy lý do “giữ gìn tinh thần của quân đội” và các quan chức cao cấp trong khi chiến tranh Đông Dương đang gay go. Họ cũng còn phải lùi bước trước Bảo Đại, vì nước Pháp đang cần một chính phủ bù nhìn để duy trì ảo tưởng rằng nước Pháp đang giúp đỡ một nước Việt Nam độc lập chống lại Việt Minh cộng sản. Họ cũng phải nhượng bộ các lợi ích tài chính và kinh tế, đặc biệt là ngân hàng Đông Dương.

Ngày 2-7-1953, Quốc hội Pháp nhất trí biểu quyết thành lập một Uỷ ban điều tra về buôn bạc Đông Dương. Uỷ ban đã đưa ra kết luận trong phiên họp ngày 17-6-1954, giữa thời điểm diễn ra thất bại ở Điện Biên Phủ (7 tháng 5) và ký kết Hiệp định Genève (21 tháng 7). Nghĩa là vào lúc kết thúc chiển tranh Đông Dương, lời phán quyết về vụ bê bối được dư luận bàn tán sôi nổi từ tháng 11/1952 đã được đưa ra.

Uỷ ban điều tra của Nghị viện đã nêu lên một vài vụ việc đặc biệt: đấy là vụ cựu nghị sĩ và cựu bộ trưởng Paul Giacobbi và con gái của cựu Cao uỷ Emile Bollaert, bị nghi ngờ là có những vụ chuyển tiền bất hợp pháp, vụ của André Diethelm, cựu thanh tra tài chính, phó chủ tịch đảng RPF, được xác nhận là đã cấp giấy phép giả để chuyển số tiền 17 triệu franc dùng tài trợ cho đảng của tướng de Gaulle năm 1949.

Vụ bê bối đã được một bài trên báo Le Monde (Thế giới) tố giác tháng 11-1952, được cuốn sách của Jacques Despuech tiếp sức, rồi hồ sơ của báo France Observateur (Quan sát) đưa ra ngày 7-5-1953. Vụ buôn bạc Đông Dương đã củng cố thái độ của phe đối lập tại Nghị viện.

_______________________

Theo tài liệu của:

Jacques Despuech, Le trafic de piastre, NXB Deux-Rives, 1953.

Jean-Michel Gaillard, Cố vấn Toà án tài chính, trong L’ Histoire, tháng 2-2001.

Nguồn: Xưa và Nay, số 91, tháng 5/2001, tr 23 - 25

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.