Bước đầu nhìn lại quan họ bờ bắc sông Cầu
Như vậy, từ trong lịch sử Bắc Giang và Bắc Ninh nằm trong vùng văn hóa Kinh Bắc.
Trải qua hàng nghìn năm xây dựng nước và giữ nước, các nhà khảo cổ học đã phát hiện và tìm thấy di chỉ đồ đá cũ ở Khe Táu, Chũ; di chỉ đồng thau ở Đồng Lâm, Bắc Lý (Hiệp Hòa)… và chứng minh đây là một vùng đất cổ. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm những địa danh Như Nguyệt, Xa Lý-Nội Bàng, Cần Trạm- Xương Giang, Yên Thế… đã trở thành những di tích lịch sử văn hóa có giá trị, minh chứng Bắc Giang là một vùng quê văn hiến, với các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng đa dạng và phong phú.
Trong hệ thống di sản văn hóa phi vật thể ấy, dân ca là sản phẩm tinh thần được thẩm định chọn lọc và lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Trong đó văn hóa quan họ và dân ca quan họ được kết tinh, thăng hoa, vượt lên một trình độ mới.
Tìm hiểu về văn hóa quan họ và dân ca quan họ, nhiều nhà nghiên cứu và các học giả từ thế kỷ trước đã đặt quan họ trong một không gian rộng, không chỉ bó hẹp trong vấn đề địa giới hành chính. Đó là vùng văn hóa, nó có thể ví như văn hóa Cồng Chiêng (Tây Nguyên); văn hóa Óc Eo (Nam Bộ); văn hóa Thái, Mường (Tây Bắc). Như vậy đối với việc nghiên cứu văn hóa Quan họ và sinh hoạt văn hóa Quan họ trong vùng văn hóa đã sản sinh ra nó để nghiên cứu thật khách quan, khoa học: Về môi trường làng xã, về điều kiện xã hội, văn hóa, về phát triển kinh tế, về mối quan hệ cộng đồng…trong nhiều thế kỷ mà quan họ đã từng tồn tại và phát triển. Vùng văn hóa Kinh Bắc như một luận cứ mà tác giả Chu Ngọc Chi, Nguyễn Văn Huyên, Minh Trúc, Vũ Bằng, Toan Sinh… đã từng khảo sát, nghiên cứu và công bố trên các bài viết của mình. Và cho đến Hội thảo khoa học về Quan họ tháng 5/1971 các nhà nghiên cứu ở địa phương mới công bố ở phia Bắc sông Cầu có 5 làng quan họ: Hữu Nghi, Giá Sơn, Nội Ninh, Mai Vũ, Sen Hồ (huyện Việt Yên) và 44 làng quan họ ở Nam sông Cầu thuộc các huyện Yên Phong, Tiên Du, Từ Sơn, thị xã Bắc Ninh (tỉnh Bắc Ninh). Đưa ra tiêu chí để công nhận là nhà nghiên cứu Trần Linh Quý, nhạc sĩ Hồng Thao và vẽ bản đồ các làng quan họ là nhạc sĩ Thế Công. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử, xã hội và kinh tế.. cho đến những năm 40 của thế kỷ XX thì sinh hoạt văn hóa quan họ và hát quan họ không được duy trì như trước mà bị thu hẹp đáng kể. Cuộc điều tra của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và nhạc sĩ Lê Yên (1956) ở vùng quan họ chỉ còn 18 làng còn có nhiều người hát được quan họ cổ và đoàn nghiên cứu đã thu được 314 bài. Đến năm 1962 thị xã Bắc Ninh cho ra cuốn sách dân ca quan họ, đã được 30 nghệ nhân giúp đỡ, thống kê được 34 làng còn có người nhớ và hát được dân ca quan họ. Với số liệu năm 1971 cả Bắc và Nam sông Cầu có 49 làng quan họ, là cả một sự cố gắng khai thác, điều tra của những người vốn say với quan họ mà người chỉ đạo là Trưởng ty văn hóa Hà Bắc Lê Hồng Dương.
Đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX các nghệ nhân ở các làng quan họ vẫn chưa thực sự say xưa khai thác và truyền dạy bài bản quan họ và sinh hoạt văn hóa quan họ ở làng. Trở lại vấn đề nhận diện Quan họ bờ Bắc sông Cầu, nhiều nhà nghiên cứu dân ca quan họ đã không thể tách bạch theo địa giới hành chính mà đặt dân ca quan họ trong vùng văn hóa Kinh Bắc để tìm hiểu về nguồn cội, cái nôi sinh ra quan họ và phát triển quan họ.
Đầu năm 2006 Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Giang phối hợp với Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam triển khai thực hiện đề tài "Điều tra văn hóa quan họ ở bờ Bắc sông Cầu". Ở làng Trung Đồng và các làng khác hệ thống bài được khai thác rất phong phú. Đợt kiểm kê ở 18 làn năm 2006 đã sưu tầm được 130 bài ca quan họ cổ và hiện có 233 người hát quan họ theo bài bản. Hầu hết các làng quan họ ở Bắc Giang như Yên Điềm (Yên Dũng); Trung Đồng, Quang Biểu, Núi Hiểu, Tam Tầng, Nội Ninh, Mai Vũ, Giá Sơn, Sen Hồ, Đông Long, Đình Cả, Thổ Hà, Lát Thượng, Lát Hạ, Thần Trúc, Hữu Nghi, Yên Ninh, Vân Cốc (Việt Yên) đều nằm ở trong vùng văn hóa quan họ Bắc sông Cầu đặc trưng văn hóa.
Về lối hát quan họ ở các làng quan họ Bắc sông Cầu đều có các hình thức hát như: Hát đón khách, hát lễ hội, hát canh, hát kết chạ, hát đám cưới, hát mừng thọ, hát cầu đảo, hát giải hạn, hát lễ thờ, hát thi, hát dịp tết, hát phục vụ khách, hát trong hội họp, hát trong sinh hoạt câu lạc bộ.
Các bài ca quan họ hiện đang tồn tại gồm có 2 nhóm: Nhóm bài hát được sưu tầm đã công bố và nhóm bài hát chưa từng được công bố, chủ yếu sử dụng ở địa phương, tiêu biểu là các bài ở Trung Đồng (xã Vân Trung, huyện Việt Yên).
Về cách gọi các giọng khi hát quan họ phổ biến có hai giọng là: Giọng sổng và giọng bỉ. Cả hai giọng này đều có thể hát các bài cổ và bài mới có nhạc. Đối với người hát quan họ, giọng phải đạt bốn yếu tố: Vang, rền, nền, nảy. Bốn yếu tố này, các nghệ nhân ở các làng đều đạt được và có thể truyền dạy cho các thế hệ tiếp theo.
Về 130 bài ca như: Khách đến chơi nhà, Mời trầu, Vào chùa, Nhớ người nhớ bạn, Tương phùng tương ngộ, Gọi đò, Ba Vì, Nhắn nhủ chị Hằng, Ai xuôi về, 36 thứ chim, Bạn tình ơi, Cái hời cái ả, Cây kiêu bông, Cây trúc xinh, Lệnh ngự, Chén son để cạnh mạn thuyền, Chim khôn đỗ ngọn thầu dầu, Nam nhị, Chia rẽ đôi nơi, Chuông vàng gác cửa tam quan, Đi đậu đến giờ, Con nhện giăng mùng, ăn ở trong rừng, Đêm quá nhớ bạn… Trong số 130 bài ca, có bài đã hát và có nhiều bài chưa hát ở đâu bao giờ.
Về tục kết chạ giữa các làng quan họ: Các làng quan họ ở Bắc Ninh, Bắc Giang thường kết chạ với nhau. Tục này được thể hiện giữa các làng như sau: Làng Thổ Hà (Bắc Giang) kết chạ với làng Diềm (Bắc Ninh); làng Yên Điềm (Bắc Giang) kết chạ với làng Vát (Bắc Ninh); làng Trung Đồng (Bắc Giang) kết chạ với làng Thượng Đồng, Hạ Đồng (Bắc Ninh); làng Nội Ninh (Bắc Giang) kết chạ với làng Hàn, Diềm (Bắc Ninh); làng Mai Vũ có quan hệ với làng Chấp Bút (Bắc Ninh); làng Hữu Nghi kết nghĩa với làng Tiêu (Bắc Ninh) từ thời Lê; làng Tiên Lát (Bắc Giang) kết nghĩa với làng Hoài Bịu (Bắc Ninh); làng Quang Biểu kết chạ với làng Quả Cảm (Bắc Ninh); làng Đình Cả (Bắc Giang) kết bạn quan họ với làng Trà Xuyên (Bắc Ninh); làng Thần Trúc kết chạ với làng Thọ Đức (Bắc Ninh); làng Núi Hiểu kết chạ với làng Thị Cầu, Đáp Cầu (Bắc Ninh); làng Tam Tầng kết bạn quan họ với làng Đô Hàn, Chắp, Diềm (Bắc Ninh).
Kết chạ là một phong tục đẹp, các làng kết chạ với nhau luôn làm tốt cho nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong kết chạ thì sinh hoạt hát quan họ giữa hai làng lại càng thêm gắn bó mối quan hệ lâu đời ấy lại với nhau. Kết chạ là một trong các yếu tố văn hóa của vùng văn hóa quan họ Kinh Bắc xưa.
Bước đầu thực hiện đề tài với thời gian không dài, song những người nghiên cứu thuộc Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam và tỉnh Bắc Giang triển khai "Điều tra văn hóa quan họ bờ Bắc sông Cầu" hoàn thành được mục tiêu đề ra. Kết quả đợt điều tra đã bước đầu khẳng định ở bờ Bắc sông Cầu không chỉ có 5 làng quan họ cổ mà còn 13 làng nữa so với tiêu chí mà các nhà nghiên cứu trước đó đã đề ra, cũng xứng đáng được lập danh sách đề xuất là các làng quan họ cổ ở bờ Bắc sông Cầu.
Ngày 1/10/2009, tại AbDhatbi, thủ đô thiểu vương quốc Ả Rập thống nhất di sản văn hóa phi vật thể dân ca Quan họ của Việt Nam đã được tổ chức khoa học giáo dục và văn hóa Liên Hợp quốc (UNESCO) vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là một vinh dự của nhân dân Việt Nam nói chung và của Bắc Giang nói riêng.
Để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quan họ, UBND tỉnh đã ra Quyết định số: 57/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án "Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Giang 2011 - 2020" trong đó có nội dung bảo tồn và phát huy di sản Dân ca Quan họ bờ Bắc sông Cầu.
Ngày 23/11/2010 tại Ngày hội Văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Giang lần thứ V-2010, Ban tổ chức Ngày hội đã trao Bằng của UNESCO cho 18 làng Quan họ (thuộc Việt Yên) theo kết quả điều tra năm 2006 và bằng của UNESCO về ca trù cho 2 câu lạc bộ ca trù của Nhà hát Chèo Bắc Giang và huyện Yên Dũng, 2 đơn vị có truyền thống hát ca trù là làng Thổ Hà (Việt Yên) và xã Đông Lỗ (Hiệp Hòa).








