Bùi Viện & mối bang giao Việt - Mỹ đầu tiên
Bùi Viện sinh quán làng Trình Phố, tổng An Hồi, huyện Trực Định (sau là phủ Kiến Xương), tỉnh Thái Bình (Bắc Việt). Năm 1864 đỗ Tú tài, năm 1868 đỗ Cử nhân, vào Huế tập văn tại Quốc tử giám. Tham tri bộ Lễ Lê Tuấn thấy Bùi Viện là người có tài đức, nên mang theo ra Bắc giúp ông dẹp giặc Cờ Đen, Cờ Vàng theo lệnh vua Tự Đức. Ít lâu sau Bùi Viện được giao cho mở mang Ninh Hải tức hải cảng quan trọng (Hải Phòng ngày nay). Ông thành công và được nhiều người biết tiếng, tin tưởng. Do đó, năm 1873, sáu năm sau khi Pháp chiếm Nam kỳ, ông được cử ra nước ngoài nghiên cứu tình hình và mưu việc cứu nước. Sự kiện vinh dự này được đánh giá bằng buổi lễ tiễn biệt vua dành cho họ Bùi tại thắng cảnh Thuý Vân Sơn. Dịp này Bùi Viện có bài thơ 5 chữ như sau:
Quý phụ minh triều sĩ
Phiên tòng hải quốc du
Bình sơn hồng nhật cận
Côi lĩnh bạch vân phù
Thân thế cương thường trọng
Thê hàng bạt thiệp du
Hoàng linh phong lãng thiếp
Thu thuỷ nhất hành chu
Dịch Nôm:
Hổ tiếng người đời thánh
Băng miền vượt biển khơi
Vừng hồng non ngự dọi
Mây trắng núi Côi phơi
Cương thường thân gánh vác
Sóng gió bước chơi vơi
Phúc chúa trời yên ổn
Dòng thu thẳng nẻo bơi.
(Phan Trần Chúc dịch).
Chuyến đi này kể như họ Bùi vâng mật dụ chứ không phải lãnh mật chỉ vì trong tay không có văn bản gì của triều đình. Khoảng 10 ngày vượt sóng, đến được Hương Cảng, là một thành phố mới do người Anh khai thác. Nhờ từng quản lý Hải Phòng và có học nói chút ít Hoa ngữ nên Bùi Viện giao thiệp với người Hoa khá thuận lợi. Điều may mắn là ông tiếp xúc được với vị Lãnh sự Hoa Kỳ có mẹ là người Hoa. Đúng là dịp ngàn năm muôn thuở. Bùi Viện kể rõ hoàn cảnh đất nước mình và tỏ ý muốn sang gặp Tổng thống Mỹ để cầu viện. Vị Lãnh sự tỏ lòng thông cảm và đã tận tình giúp đỡ. Có lẽ Bùi Viện phải học và ghi chú nhiều thứ từ tên phố, tên đường đến câu hỏi cần thiết hằng ngày, đặc biệt là phải có giấy giới thiệu riêng của ông Lãnh sự. Cuối năm ấy, Bùi Viện rời Hương Cảng đi Hoành Tân (Yohohama), từ đó thẳng đường sang San Franciscotrên đất Mỹ, tìm gặp người thân tín của ông Lãnh sự, lần hồi cũng đến được Hoa Thạnh Đốn ( Washington ). Tổng thống Mỹ bấy giờ là Ulysse Sympson Grant (1822 – 1885) sau nhiều công vụ quan trọng và do có sự vận động của Lãnh sự Hương Cảng, đã tiếp Bùi Viện một cách nồng hậu.
(Kết quả một năm tròn chờ đợi và quan sát học hỏi ở Mỹ). Vị Tổng thống Mỹ khuyên Bùi Viện lần sau trở lại cần nhất là xuất trình quốc thư của Việt Nam theo nguyên tắc bang giao quốc tế. Tuy thất bại, nhưng chuyến đi của Bùi Viện thế này là quá tốt, rời nước nhà có vua chứng kiến, đến nước giàu có Tổng thống hứa hẹn. Ông không rành luật quốc tế, và triều đình Huế có muốn cũng không khinh suất trao quốc thư cho một nhân viên nhỏ chỉ với bổn phận sự thăm dò tình hình bên ngoài. Chuyện bên lề lịch sử: “Người Việt Nam đầu tiên đến nước Mỹ” có thể dừng lại ở đây với vài chi tiết quan trọng. Khi về đến Huế tâu trình mọi việc xong, nhân có tin mẹ mất, Bùi Viện xin về thọ tang, vua ban lời khen: “Trẫm với ngươi tuy chưa có ân nghĩa gì cả mà đã coi việc nước như việc nhà không quản xa xôi, lo lắng. Quỷ thần tất cũng biết vậy”.
Sau đó ông nghiên cứu thành lập một đội Tuần dương quân rất có quy củ, trước được phong là Thương chính Tham biện, nay phong là Tuần tải Nha chánh quản đốc (tương tự như Đô đốc hải quân kiêm hàng hải và thương mại). Nhưng rồi ông chết bất ngờ năm Tự Đức thứ 31 (1878) để lại nhiều xúc động và tiếc thương. Điều chúng tôi muốn nhắc tiếp theo là khi về lại Hoành Tân, có duyên tái ngộ ông Lãnh sự Mỹ, hai người làm thơ đường luật chia tay nhau, hai câu cuối của ông là:
Vi hoan tự tích hoàn vi biệt
Tiên lữ hà niên cộng phiếm chu?
Ý nghĩa là:
Chúng ta vui vầy từ buổi gặp gỡ trước nay là buổi chia tay,
Biết năm nào mới lại thả thuyền chơi với bạn hiền?
Điều mơ ước đó của Bùi viện đã gần 135 năm trước ngày nay đã thành hiện thực








