Bơm va – một giải pháp thủy lợi vùng cao tỉnh Thanh Hóa
Hiện nay các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất, đời sống các huyện miền núi thanh hóa chủ yếu là các công trình nước tự chảy , nguồn nước lấy từ khe núi tự nhiên. Tuy nhiên trong những năm gần đây, do hạn hán, thiên tai, ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu, tình trạng phá rừng tràn lan làm cho các nguồn nước thiên nhiên cạn kiệt. dẫn đến nhiều công trình nước tự chảy, các giếng khoan, giếng khơi khoong thể hoạt động được hoặc hoạt động không có hiệu quả gây lãng phí lớn. Thiếu nước làm cho hệ sinh hoạt và canh tác của người dân gặp vô vàn khó khăn, nhiều vùng đất trước đây canh tác có hiệu quả, thì nay đang bị bỏ hoang, nhiều cụm dân cư người dân phải bỏ nhà chuyển đến các khu vực có thể lấy nước sinh hoạt.
Đứng trước tình trạng này, nay 2010 UBND tỉnh Thanh Hóa cho thực hiện đề tài” Sử dụng thử bơm va để tưới ruộng” Ban Dân Tộc Thanh Hóa là cơ quan chủ trì và thực hiện. Mục đích của đề tài là xây dựng một mô hình sử dụng bơm va để cấp nước sinh hoạt và sản xuất, làm cơ sở cho việc nhân rộng nhân rộng tại các miền núi Thánh Hóa, nơi không thể đầu tư các công trình thủy lợi (mương xiphong hoặc trạm bơm điện);chuyển giao, đào tạo vận hành kỹ thuật để người dân làm chủ được công nghệ; tuyên truyền, khuyến khích các địa phương ở các vùng miền núi sử dụng bơm va cho mục đích cấp nước tưới tiêu và sinh hoạt.
Đề tài được phát triển tại khu vực Piềng Héo Mơ, làng Khằm, xã hồi Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, vị trí này có một điểm đặc biệt: Không quá xa thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa , thích hợp cho việc tham quan, học hỏi mô hình, không có điện lưới, độ cao cần dua nước lên là 35m, nhiều diện tích đất có thể khai hoang, nước suối có quanh năm, lượng nước thấp nhất trong năm (tháng 1-4 âm lịch) khoảng 100l/s đủ cho nước cho việc lắp đặt hệ thống bơm va. Địa hình tương đối đặc trưng với điều kiện của các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa , phù hợp cho việc lắp đặt hệ thống bơm va phục vụ nước tưới tiêu và sinh hoạt.
Công trình khoa học này được hội đồng khoa học cấp tỉnh nghiệm thu, đánh giá xếp loại khá. Trạm bơm va ( công suất hơn 200m 3/ngày đêm) hoạt động suốt ngày đêm đã được bàn giao cho người dân bản Khằm quản lý khai thác có hiệu quả. Tính đến thời điểm tháng 1/2011, trạm bơm va đã đi vào hoạt động được 6 tháng , đã chịu đựng qua vài cơn bão , vài trận lũ , nhưng bơm va vẫn hoạt động hiệu quả, chưa có một dấu hiệu nào đáng lo ngại cho độ bền vững của công trình. Với ưu điểm là không mất nhiên liệu, tự động đưa nước lên cao suốt ngày đêm, không cần nhà trạm, công tác vận hành đơn giản, tuổi thọ cao, thích hợp để cung cấp nước chho sản xuất , sinh hoạt tại những khu vực khó khăn. Kết quả nghiên cứu đề tài là cơ sở khoa học cho việc định hương nhân rộng mô hình sử dụng bơm va để phục vụ sinh hoạt và sản xuất cho người dân các vùng đặc biệt khó khăn, nơi mà giửi pháp xây dựng truyền thống không thể thực hiện, hoặc thực hiện với hiệu quả rất thấp. Kết quả của đề tài được gắn liền với các hoạt động phát triển cộng đồng, dựa trên nhu cầu của người dân, liên kết được các lĩnh vực về: Nông nghiệp, tái trồng rừng, vệ sinh cộng đồng, bảo vệ môi trường, cấp nước sinh hoạt. Có thể nói, chính nhờ hiệu quả của công nghệ bơm va trong việc đưa nước từ thấp lên cao không sử dụng các loại năng lượng (điện, xăng dầu) mà công trình đã thu hút được nhiều sự quan tâm của lãnh đạo cũng như người dân của các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
Việc vận hành bảo quản trạm bơm va tương đối đơn giản, tự người dân có thể làm được. Tuy nhiên, muốn bơm hoạt động được, đồi hỏi phải chọn địa điểm hợp lý và lắp ráp có độ chính xác cao. Bơm phải được đặt trên móng bê tông kiên cố và phải được xiết chặt bằng các bu lông. Phải có lưới chắn rác để cho rác không vào bơm (thường được đặt trước kênh dẫn nước vào bể cấp nước cho bơm). Ống ra của bơm va cần có van để tiện thao tác, ống nước ra phải cao hơn điểm cao nhất của thùng áp lực. Thân bơm, đường ống vào, ống ra và những chỗ nối tiếp không được có hiện tượng rò rỉ. Giảm bớt các đoạn cong của ống ra để nước đỡ bị cản và giảm lưu lượng.
Công nghệ bơm va ngay sau khi đưa vào ứng dụng đã góp phần đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển kinh tế xã hội, là một giải pháp kỹ thuật thủy lợi phục vụ miền núi, có thể lắp đặt đại trà để cấp nước tưới và sinh hoạt cho hầu hết các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa… nơi có nguồn nước suối chảy. Theo Hội đồng Khoa học công nghệ cấp tỉnh đánh giá, đây là một giải pháp hữu hiệu cho thủy lợi vùng cao, cần được khuyến khích và nhân rộng./.








