Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1427 - 1572)
Tổ chức và hoạt động của bộ máy cai trị cấp châu
Hoá Châu là một vùng đất mà quân Minh chú ý ngay từ khi vừa đánh chiếm Đại Việt. Trương Phụ, tướng nhà Minh đã từng nói: “Tôi có sống được là ở Hoá Châu, tôi có chết cũng ở Hoá Châu, Hoá Châu mà chưa bình định xong thì tôi còn cặp mắt nào trông thấy chúa thượng nữa” (1). Vì thế, ngay khi chiếm Hoá Châu, quân Minh đã đặt ách đô hộ khắc nghiệt trên toàn cõi Đại Việt. “Hai châu Thuận, Hoá bị sáp nhập làm một châu Thuận Hoá, chỉ còn 79 làng, 1470 hộ và 5662 khẩu dân đinh” (2).
Sau khi giành độc lập cho đất nước, nhiệm vụ trọng yếu của các vua thời Lê Sơ là phải gấp rút xây dựng lại nền kinh tế vừa bị phá hoại nghiêm trọng, đồng thời phải ổn định tình hình xã hội ở Hoá Châu. Năm 1428 vua Lê Thái Tổ đã cử các trọng thần vào trấn thủ Hoá Châu, với nhiệm vụ bảo vệ vùng trọng trấn phía nam. Hơn nữa, sau khi được giải phóng khỏi ách thống trị của giặc Minh, chế độ phong kiến Việt Nam chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn phát triển cao độ của chế độ phong kiến tập quyền. Sự tan rã của nền kinh tế điền trang và quan hệ nông nô, nô tì đã thủ tiêu về căn bản những cơ sở phân tán trong xã hội cùng với sự phát triển của kinh tế tiểu nông tạo điều kiện nâng cao mức độ tập quyền của nhà nước phong kiến thời Lê Sơ. Trải qua các đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, bộ máy nhà nước phong kiến ngày càng được củng cố và đến đời Thánh Tông thì đạt tới đỉnh phát triển cao nhất của nó.
Bộ máy nhà nước phong kiến thời Lê Sơ là một hệ thống chính quyền chặt chẽ nhằm chi phối xuống tận các địa phương và tập trung quyền hành vào tay triều đình, đứng đầu là nhà vua. Lãnh thổ Đại Việt lúc bấy giờ mới bao gồm miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, cho đến sông Thu Bồn, miền phủ Thăng Hoa đã bị quân Chămpa chiếm lại.
Năm 1427, vua Lê đã bố trí nhiều quan quân nhà Minh đầu hàng vào các xứ Thanh Hoá, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá, còn “sai người Minh là Châu Sài đem 340 con ngựa đến Hoá Châu chăn nuôi” (3). Vùng đất Hoá Châu ngay từ đầu đã được nhà Lê rất quan tâm và tổ chức cai trị một cách chặt chẽ.
Ngay khi vừa lên ngôi, năm 1428, Lê Lợi đã chia cả nước thành 5 đạo để cai trị thiên hạ: “trước kia nhà vua ra Đông Đô chia trong nước làm 4 đạo. Đến đây, trong nước đã yên hẳn rồi, lại đặt thêm đạo Hải Tây. Cho Thanh Hoá, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hoá đều lệ thuộc vào đó. Ở đạo thì đặt vệ quân, ở vệ thì đặt tổng quản. Đơn vị to và nhỏ cùng gìn giữ cho nhau, cấp bậc trên và dưới cùng ràng buộc lẫn nhau. Lại đặt Hành khiển ở các đạo chia giữ sổ sách quân và dân” (4).
Nhà vua lấy Hoá Châu làm trọng trấn, triều đình thường phái các vị trọng thần vào đó trấn thủ, ngoài đặt các chức lộ tổng quản và lộ tri phủ tại trọng trấn này (5). Đứng đầu các Châu Hoá là một viên Tri châu và Đồng tri châu. Ngoài ra, còn có các chức Phòng ngự sứ hay Chiêu thảo sứ. Năm Kỷ Dậu (1429) nhà vua lại: “chỉ huy cho quan các lộ, huyện, xã rằng hễ ấn công thì do Chính quan giữ, ở lộ thì Tri phủ giữ ấn, không có tri phủ thì Trấn phủ giữ ấn; các huyện thì Tuần sát giữ ấn; nếu không có Trấn phủ, Tri phủ thì dùng Chiêu thảo hoặc Phòng ngự giữ ấn, có việc thì cùng bàn với nhau, đáng đóng ấn thì mới đóng.
Nhìn chung, bộ máy cai trị thời Lê Thái Tổ vẫn còn sơ sài và phải dựa vào quy chế tổ chức của các triều đại trước đó. Tuy vậy, so với thời Lý - Trần, bộ máy cai trị thời Lê Thái Tổ đã có một bước tiến về mức độ tập trung chính quyền. Năm 1466, vua Lê Thánh Tông đã chia lại các đơn vị hành chính trong địa phương. “Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông đặt ra 12 đạo thừa tuyên là Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung Đô. Đổi lộ là phủ, đổi trấn là châu. Rồi sai các chức thừa tuyên xét núi sông chỗ mònh cai quản làm thành địa đồ. Năm thứ 10 (1469) Kỷ Sửu, sửa định lại bản dồ trong nước để thống thuộc các phủ huyện và thừa tuyên. Đến năm Tân Mão (1471), bình định được nước Chămpa, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam cộng là 13 đạo” (7). Năm đạo trước kia trở thành 12 đạo để hạn chế bớt quyền hành của chính quyền địa phương. Tiếp theo đó, vua Lê Thánh Tông, lại đổi lộ thành phủ, đổi trấn làm châu.
Theo đó, Thuận Hoá gồm 2 phủ, 7 huyện, 4 châu. Trong đó phủ Triệu Phong lãnh 5 huyện (Hải Lăng, Vũ Xương, Đan Điền, Kim Trà, Tư Vinh) và 2 châu (Thuận Bình, Sa Bôi). Riêng Hoá Châu quản 3 huyện Đan Điền, Kim Trà, Tư Vinh. Đứng đầu Hoá Châu là một viên Tri châu. Ngoài ra còn có Đồng tri châu giúp việc.
So với thời Trần Hồ, bộ máy cai trị Hoá Châu thời Lê Sơ đã khá chặt chẽ và hoàn chỉnh. Dưới thời Trần, đơn vị hành chính địa phương đã được chia lại từ 24 lộ thời Lý làm 12 lộ. Dưới lộ là phủ, châu, huyện và xã. Hoá Châu được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt vào năm 1306, cai quản châu Hoá có một Tuần sứ. Hoá Châu thời Trần quản 7 huyện là: Trà Kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh với khoảng trên 40 làng, ấp, thôn, trại, sách. Đứng đầu châu là một viên Đại tri châu.
Hoá Châu thời Trần tất nhiên chưa thể ổn định như thời Lê. Các vua Trần đã nhận thức rõ vị trí xung yếu của châu Hoá, nên đã giao việc trấn thủ châu Hoá cho trọng thần hay hoàng thân. Năm 1342, Hưng Hoá vương Trần Quốc Oai được cử làm trấn thủ châu Hoá. Tháng 3 năm 1352, vua Chămpa là Bà La Trà Toàn kéo quân ra đánh châu Hoá, quân trấn giữ chống cự khó khăn. Vua Trần Dụ Tông phải cử Tả tham tri chính sự Trương Hán Siêu vào trấn thủ châu Hoá, ổn định tình hình trong mấy tháng rồi trở về triều.
Mười năm sau, quân Chămpa lại sang cướp phá Hoá Châu, vua lại cử Đỗ Tử Bình cầm quân tăng viện và tu bổ thành Hoá Châu kiên cố hơn. Hơn nữa để tăng cường ổn định nơi biên viễn, vua Trần Nghệ Tông đã cắt một viên quan người địa phương là Hồ Long làm Đại tri châu Hoá. Đến năm 1391, vua Trần Thuận Tông cử Lê Quý Ly đi tuần châu Hoá, xét định quân ngũ, sửa chữa thành trì, châu Hoá mới ổn định.
Như vậy, việc tổ chức bộ máy cai trị ở châu Hoá đã được nhà nước phong kiến quan tâm đúng mức. Song phải đến thời Lê Sơ thì bộ máy cai trị châu Hoá mới trở nên hoàn chỉnh và chặt chẽ hơn. Tổ chức bộ máy cai trị Hoá châu thời Lê đã được kiện toàn.
Hoạt động chủ yếu của cấp châu thời Lê Sơ là việc quản lý chính sự, quân sự và kiện tụng.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy cai trị cấp huyện
Dưới thời Trần - Hồ, đơn vị hành chính địa phương là huyện. Đứng đầu huyện là một viên tri huyện. Dưới thời Trần, Hóa Châu có 7 huyện, với 40 xã, ấp, thôn, trại, sách. Như vậy, huyện là đơn vị hành chính có từ thời Trần, huyện quản lý các xã.
Đến thời Lê Sơ, đơn vị huyện được tổ chức một cách tập trung hơn, bao gồm nhiều xã hơn và quản lý chặt chẽ hơn. Năm 1466, dưới thời Lê Thánh Tông, ba huyện Đan Điền, Kim Trà, Tư Vinh đã quản: Đan Điền 65 xã, 9 thôn, 6 sách, Kim Trà 72 xã, 6 châu, 13 sách, 3 nguyên; Tư Vinh 43 xã, 18 thôn, 1 trang. Như vậy, thời kỳ này Hoá Châu quản 180 xã (8).
Huyện thời Lê có một viên trưởng quan gọi là Tri huyện, cùng một viên phó quan gọi là Huyện thừa. Các chức quan này trực tiếp cai quản các công việc trong huyện.
Hoạt động cơ bản của huyện là quản lý các xã thuộc huyện mình. Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý đất đai, thuế khoá và dân đinh của các xã. Đây là đơn vị hành chính quan trọng còn tồn tại đến ngày nay.
Tổ chức và hoạt động cai trị cấp xã
Nếu trong xã hội Việt Nam truyền thống, gia đình thường được coi là tế bào của xã hội, thì làng xã là đơn vị cố kết nhiều gia đình lại là tổ chức “mô” của xã hội đó. Tuy nhiên, sự phát triển nội tại của làng xã không nhất thiết tỷ lệ thuận với sự gia tăng mức độ quản lý làng xã và sự can thiệp vào đời sống làng xã của nhà nước phong kiến. Trong từng giai đoạn của lịch sử, hai yếu tố trên phát triển theo chiều tỉ lệ nghịch: nhà nước mạnh thì làng xã yếu đi và khi nhà nước yếu đi thì làng xã lại mạnh lên.
Dưới triều Lê, chính sách “dĩ nông, vi bản”, “trọng nông ức thương” được thi hành. Vì vậy, mối quan tâm hàng đầu của chính quyền nhà nước là việc quản lý chặt chẽ nông thôn, nắm cho được làng xã thông qua việc quản lý ruộng đất và quản lý dân đinh. Vương triều Lê Sơ thông qua chính sách và luật pháp, nhất là phép quân điền đã cơ bản làm được điều đó. Triều đình trung ương một mặt đảm bảo giúp đỡ và mặt khác làm kiểm soát can thiệp vào mọi mặt đời sống của làng xã. Hoá Châu tuy là vùng đất mới thành lập và nằm xa chính quyền trung ương, song không thoát khỏi tình trạng đó.
Hoá Châu thời Lê Sơ có 180 xã với sự phân bố như sau: Đan Điền 65 xã, Kim Trà 72 xã và Tư Vinh 43 xã. Đứng đầu xã có chức đại và tiểu tư xã. Bên cạnh còn các chức xã quan và xã chính. Năm 1428, Lê Lợi đặt xã quan, “xã lớn từ 100 người trở lên, có 3 xã quan, xã bậc trung từ 50 người trở lên, có 2 xã quan, xã nhỏ từ 10 người trở lên có 1 xã quan” (9). Đến đời Thánh Tông định lại: đại xã gồm 500 hộ trở lên, trung xã 300 hộ trở lên và tiểu xã 100 hộ trở lên. Như vậy, phạm vi của xã so với thời Lê Lợi đã được mở rộng hơn nhiều. Tổ chức cai trị châu Hoá thời Lê nhìn chung được quy định khá rạch ròi, nó cho thấy sự quản lý của nhà nước trung ương đã với tay xuống làng xã trong quản lý dân đinh.
Một điều đặc biệt trong làng xã Hoá Châu thời kỳ này là sự giao thoa, cộng cảm giữa cộng đồng cư dân người Việt và người Chăm trong quá trình khai hoang lập làng. Trong bản Thỉ Thiên tựtìm thấy được ở làng Câu Nhi (Quảng Trị) đã cho thấy sự hiện diện khá đông đảo của người Chăm ở lại đất Hoá Châu và cùng với nó là sự đan xen của làng người Việt di cư vào và làng của người Chăm còn lại ở vùng đất này: “Lúc đến xứ Ô châu mà ngày trước ta từng sống và bàn bạc với dân Chiêm Thành xứ ấy xin cư trú rồi nên không có gì trở ngại. Do vậy, việc dựng nhà, mua cày bừa chỉ ít lâu là xong, bèn làm một cái rạp trước mặt nhà, biện một lễ tế giang sơn, xin cáo chôn cất kim cốt và ra sức canh cẩn ruộng nương” …. “Từ nay về sau, chỗ ở đã yên, người Chiêm Thành thường lui tới, ta hết lòng tiếp đãi họ, giúp đỡ họ khi gặp khó khăn. Họ hay mang thổ cẩm đến tặng ta, ta không hề tiêu” (10). Như vậy, sự thành lập làng xã mới của người Việt cộng với những làng xã cũ của người Chăm còn lại, bức tranh cư dân châu Hoá thời kỳ này khá đa dạng nhưng không có nhiều xáo trộn.
Dưới thời Lê Sơ, vị xã trưởng đảm nhận mọi việc trong xã, còn xã sử và xã tư là người giúp việc thuế khoá, tuần tra và an ninh.
Các chức danh và quan chức tiêu biểu
Sau khi giành lại độc lập cho đất nước, vua Lê Thái Tổ đã cử các trọng thần vào trấn thủ Châu Hoá với nhiệm vụ bảo vệ vùng trọng trấn phía nam, tổ chức ổn định đời sống nhân dân, tăng cường việc di dân, khai hoang, phục hoá thành lập làng xã mới. Tiêu biểu là năm 1430, vua đã cử danh tướng Lê Khôi làm tổng quản hành quân trấn thủ Châu Hoá.
Lê Khôi là tướng giỏi, đồng thời cũng là nhà chính trị có biệt tài. Năm 1430, được cử vào trấn thủ châu Hoá. Ông bãi trạm gác, bỏ sự xét hỏi nghiêm ngặt, chiêu mộ dân xiêu tán, khuyên bảo làm ruộng trồng dâu. Dân biên giới bị bắt đều được đối đãi tử tế, giáo dục rồi cho về; vì vậy, đức độ, tiếng tăm rộng khắp. Người Chiêm sợ uy mộ nghĩa, trả lại những nhân khẩu đã bắt trước.
Với vùng đất Hoá Châu, Lê Khôi đã làm được khá nhiều việc ở vùng đất nơi biên viễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mụccòn ghi: “Hoá Châu gần kề Chiêm Thành nên phải sai người bầy tôi có họ thân giữ lấy (11). Hay Đại Việt thông sửicòn ghi: “năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) vua sai Hành quân Tổng quản là Lê Khôi đóng quân tại Hoá Châu để trấn giữ nước Chiêm Thành” (12). Năm Bính Dần (1446); ông được lệnh cùng Lê Thận, Lê Xí cầm quân đánh Chiêm Thành, đã đánh vào tận thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí Cai. Năm 1447, ông mất trên đường trở về sau khi đánh trận Đồ Bàn thắng lợi.
Nhắc đến vùng đất Hoá Châu hẳn sẽ không thể quên được công lao của Lê Chuyết. “Năm Mậu Thân (tức 1428), quân nhà Minh phải rút về nước, nên khắp nơi trên đất nước ta đều được bình định. Nhà vua lấy Hoá Châu làm trọng trấn, cho nên thường phái các vị trọng thần về đó làm trấn thủ. Ngài lại đặt các chức “lộ tổng quản” và “lộ tri phủ” tại trọng trấn này. Các tướng hữu danh thời ấy như Lê Khôi. Lê Chuyết đều có trấn đất này” (13).
Hoá Châu sau khi Lê Khôi vào trấn thủ, không khí thanh bình, ổn định kéo dài chỉ trong vòng 6 năm. Mùa hạ năm 1434, vua Chămpa là Bồ Đề nghe tin Thái Tổ chết, đã đích thân cầm quân ra sát biên giới âm mưu đánh phá Thuận Hoá. Y sai thuyền lẻn vào cửa Việt, bắt cóc dân đinh. Do dó, vua Lê Thánh Tông đã cử Tư mã Lê Liệt, chỉ huycác quân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá đi tuần du Tân Bình, Thuận Hóa, tiếp theo lại cử Thiếu uý Lê Khôi và Hành khiển Tổng quản Lê Chuyết cùng đốc suất quân địa phương đi sau. Tình hình trở lại bình yên.
Năm 1443, vua Lê Thánh Tông đã cử Tổng quản Lê Chuyết trông coi dân sự hai phủ Tân Bình và Thuận Hoá. Năm 1444, vua Chămpa Bí Cai thân chinh đem quân, voi và thuyền ra vây thành Châu Hoá. Lê Chuyết ngày đêm cố thủ, có lần vượt ra ngoài thành, xung phong đi trước quân lính, phá được giặc. Quân Chămpa lại điều thuỷ quân tiến đánh, nhưng bị Lê Chuyết tổ chức mai phục, cả tướng chỉ huy và tất cả thuyền giặc đều bị bắt. Đến khi quân Chămpa tiếp viện kéo đến thì cũng bị đầy lùi bởi quân địa phương châu Hoá.
Mùa hạ năm 1445, quân Chămpa lại ra cướp. Đêm ấy mưa to gío lớn, nước sông đầy tràn. Lê Chuyết đem thủy quân xung phong đánh giặc, bắt được 200 chiến thuyền. Vua Chămpa là Bí Cai phải trốn chạy trong đêm. Lê Chuyết chia quân cho Tuyên phủ sứ Nguyễn Liêu giữ thành, còn tự mình đem quân truy đuổi, bắt được rất nhiều thuyền giặc. Quân Chămpa đại bại, Bí Cai phải lội rừng trốn thoát. Sách Phủ biên tạp lụccòn ghi lại công lao của Lê Chuyết trong trận đánh Đồ Bàn của vua Lê Nhân Tông: “Năm 1446, vua Lê Nhân Tông lại cử quân hỏi tội Chiêm Thành. Lê Chuyết được cử làm tiên phong đánh giặc ở các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, lại cùng các chủ tướng bàn mưu tính kế, thuyết phục được vương tôn Chiêm Thành là Tả Bí Cai, tiến quân vào thành Đồ Bàn, bắt được Bí Cai” (14). Năm Mậu thìn (1448) ông mất, được thăng Nhập nội tư không Bình chương sự.
Trong những quan chức vào trấn thủ Hoá Châu, một nhân vật đã có công rất lớn đối với vùng đất này, đó là Đặng Thiếp.
Sau khi nối ngôi, vào tháng 6 năm Bính Tuất (1446) vua Lê Thánh Tông đặt 13 đạo thừa tuyên trong cả nước, trong dó có thừa tuyên Thuận Hoá. “Tháng 2 năm thứ 7 niên hiệu Quang Thuận, vua Lê Thánh Tông đặt ty “Tuyên chánh sứ” tại các đạo và cử Nguyễn Đặc Đạt là “tuyên chánh sứ” Hoá Châu” (15). Vua cũng đã đổi lộ thành phủ, đổi trấn thành châu, rồi chức chuyện vận thành tri huyện, xã quan thành thành xã trưởng. Cuối năm ấy, Tham nghị Thừa Tuyên sứ ty châu Hoá là Đặng Thiếp đã dâng sớ tâu bày 5 việc nên làm là:
- Dựng đồn luỹ ở gần cửa biển Tư Dung.
- Lấp cửa Eo.
- Đào kênh Sen.
- Bãi bỏ chức thuế sử ở đầu nguồn.
- Chiêu mộ lưu dân khai khẩn đất hoang ở châu Bố Chính
Đó là đề nghị rất sáng suốt của một quan chức có trách nhiệm như Đặng Thiếp. Dưới sự cai trị của Đặng Thiết tình hình Hoá Châu đã sáng sủa hơn, xã hội trở nên ổn định, kinh tế có phần phát triển, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp.
Ngoài những quan chức được triều đình cử vào trấn giữ, dưới triều Lê Sơ với chính sách “phủ dụ dân chúng nơi biên viễn”, triều đình đã trực tiếp phong quan chức cho các thổ tù và quan lại địa phương. Tuy Hoá Châu thời Lê Sơ chưa hoàn toàn ổn định, nhưng với những quan chức đầy trách nhiệm, vùng đất này đã phần nào được phát triển.
Thành Hoá Châu thời Lê Sơ
Nhắc đến bộ máy cai trị Hoá Châu thời Lê Sơ người ta không thể quên vai trò của thành Hoá Châu. Thành Hoá Châu là ly sở của Châu Hoá, một thành luỹ quan trọng ở vùng biên viễn phía nam của nước Đại Việt từ thời vua Trần, là một thành cổ đánh dấu bước đô thị hoá đầu tiên ở xứ Huế.
Thành Hoá Châu được xây dựng trên một mảnh đất cao, thoáng, nay thuộc xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế khoảng 9 km về phía đông bắc. Thành Hoá Châu được xây dựng án ngữ ngay giữa ngã ba sông, gọi là Ngã ba Sình. Đó là sự hợp lưu của sông Hương chảy từ phía nam, sông Bồ từ phía tây bắc, tạo thành sông Linh Giang sâu và rộng rồi đổ ra phá Tam Giang.
Nhìn tổng thể Hoá thành có quy mô lớn, cấu trúc hoàn chỉnh với tường cao, hào sâu, địa thế hiểm trở, đáp ứng được nhu cầu quân sự, chủ động công thủ. Thế liên hoàn thuỷ bộ, đặc biệt là đường thuỷ thông ra biển qua phá tam Giang đã gắn kết toà thành với hậu phương, đảm bảo là vị trí tiền tiêu, là phên dậu phía nam của đất nước.
Thành được xây dựng khá quy chỉnh, kết hợp hài hoà với yếu tố tự nhiên, tạo nên toà thành kiên cố trấn giữ vùng đất trọng yếu Hoá Châu. Thành có cấu trúc gần với hình chữ nhật, nằm dọc theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, song song với khúc sông Hương, từ Ngã ba Sình đến cồn Quy Lai. Tường thành đắp đất dày cao, đầm lèn vững chắc, xung quanh thành là hệ thống đầm phá, sông bao bọc tạo nên hệ thống giao thông thuỷ thuận tiện giữa trong và ngoài thành. Thành Hoá Châu có hai vòng thành: thành Nội và thành Ngoại.
Vòng thành ngoại gần với hình chữ nhật, bị uốn cong ở hướng Tây Bắc, nằm trãi theo hướng Tây Nam - Đông Bắc. Hai cạnh ngắn nằm ở hướng Tây - Bắc, Đông - Nam, tạo thành các lũy thành.
Toà thành nội nằm gọn về hướng Bắc của sông Thành Trung - tức nằm trên cửa hướng Bắc của toà thành Hoá Châu. Thành nội cách bờ sông Thành Trung khoảng 150 m, cách thành ngoại hướng Tây Bắc khoảng 80 m đến 100 m. Toà thành nội bị phá huỷ nhiều, đến nay chỉ còn luỹ thành ngang hướng tây Nam và lũy thành ngang hướng Đông Nam. Hai lũy thành này bắt góc khá vuông vức ở hướng Nam .
Thành nội ngày nay là dải đất cao hình chữ L, mà cạnh dài của chữ L này nằm dọc theo sông Thành Trung. Lũy thành này vuông góc với luỹ thành hướng Tây - Nam , chạy dọc theo sông Thành Trung, đến chùa Thành Trung thì chấm dứt, do đó dân địa phương còn gọi là thành cụt.
Phía Tây bờ thành cụt là dải đất cao mang tên gọi Kho Hạ, Kho Thượng, Kho Trung. Hoá thành thời Lê Sơ bên trong thành nội chắc hẳn tồn tại nhiều kho lương thực tương đối lớn, mà di tích còn lại chỉ là những vạt kho. Thành Hoá Châu trở thành hậu cứ quan trọng trong nhiều lần nam chinh của nhà Lê.
Nhìn tổng thể, thành Hoá Châu có quy mô lớn, cấu trúc hoàn chỉnh với tường cao hào sâu, địa thế hiểm trở, đáp ứng được nhu cầu quân sự trong đáp ứng phòng thủ cũng như tấn công. Thế liên hoàn thủy bộ, đặc biệt là dường thuỷ thông ra biển đã gắn kết chặt chẽ giữa toà thành với hậu phương, đảm bảo tốt là vị trí tiền tiêu, phên dậu phía nam của vùng biên viễn Đại Việt. Dưới thời Lê Sơ, Hoá thành từ một nơi trọng trấn, nơi đồn trú quân binh vùng biên viễn dần phát triển thành một trung tâm chính trị, kinh tế của vùng phía nam quốc gia Đại Việt.
Đối với Đại Việt, vùng đất Thành Hoá nói chung và Hoá thành nói riêng là trọng trấn phương nam. Hoá thành là ly sở châu Hoá thuộc lộ Thuận Hoá vào cuối thời Trần, đầu thời Lê. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh (1407 - 1427), châu Hoá là căn cứ địa với vai trò trung tâm là Hoá thành, là hậu phương vững chắc của cả nước, để sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi, Lê Thái Tổ coi đó là “phên dậu thứ tư” của Tổ quốc, “là lòng dạ của ta”.
Sau trận chiến thắng năm 1471, biên giới quốc gia Đại Việt được mở rộng đến vùng Phú Yên. Toà thành Hoá Châu không còn là nơi trực tiếp đứng đầu sóng ngọn gió, vai trò quân sự được đưa xuống hàng thứ yếu, thay vào đó là sự phát triển về chính trị, kinh tế, văn hoá… Tại dây, dần hình thành nên một khu đô thị mà hạt nhân chính là thành Hoá Châu, hội tụ xung quanh nó là những làng, những khu dân cư mới đặt nền móng cho đô thị sau này.
(1) Ngô Sĩ Liên (168),Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2). Cao Huy Giu, Đào Duy Anh dịch, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 246.
(2) UBND tỉnh Thừa Thiên Huế (2005),Địa chí Thừa Thiên Huế , Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 56.
(3) (6) Ngô Sĩ Liên, Sđd (tập 3), tr 46, 67.
(4) (9) (11) Quốc sử quán triều Ngyễn (1998),Khâm định Việt sử thông giám cuơng mục (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 835, 844, 860.
(5) (8) (13) (14) (15) Lê Quý Đôn (1964).Phủ biên tạp lục , bản dịch Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Trọng Hân và Nguyễn Ngọc Tĩnh, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 46, 60, 46, 41, 53.
(7) Phan Huy Chú (1992),Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), Viện Sử học phiên dịch và chú giải, Nxb KHXH Hà Nội, tr 38.
(10) Dẫn theo Nguyễn Hữu Thông, “Bức tranh dân cư vùng Thuận Hoá thế kỷ XV qua bản Thỉ thiên tự”, tạp chíKhoa học và công nghệ Thừa Thiên Huế (số 1 - 1997), tr 124, 125.
(12) Lê Quý Đôn (1996),Đại Việt thông sử , bản dịch Túc Viên Lê, Mạnh Liêu và Nguyễn Khắc Thuần, Nxb Đồng Tháp, tr 87.