Biểu tượng của ngàn năm tự chủ
Trên không gian Hà Nội ngày nay bao trùm cả những Cổ Loa của An Dương Vương, Mê Linh của Hai Bà Trưng… nhưng Thăng Long của các đời Lý, Trần, Lê gắn với quốc gia Đại Việt thì chỉ là một không gian giới hạn của hai thành phần thành (Thăng Long) và thị (Kẻ Chợ) soi bóng sông Hồng và hai mặt gương Hồ Tây ở phía bắc và Hồ Gươm ở phía nam.
Người mở đầu kỷ nguyên tự chủ của Đức Ngô Vương Quyền ghi dấu bởi chiến thắng Bạch Đằng (năm 938). Vị tổ trung hưng thứ nhất này đã quyết định chọn “Cổ Loa” làm kinh đô để nối lại “quốc thống” mà Thục An Dương Vương đã khởi dựng từ hơn một thiên niên kỷ trước. Hai triều tiếp sau (Đinh - Tiền Lê) tự thấy nền tự chủ còn non trẻ nên lùi vào Hoa Lư nơi có địa thế hiểm thủ.
Dựng nên nhà Lý (1009), Lý Công Uẩn quyết dời đô ra nơi bằng phẳng, phong quang, không e dè gần với phương Bắc. Ngài đã không ra lại Cổ Loa để nối lại “quốc thống”, lại ở bên kia sông rất gần với quê hương Kinh Bắc của mình. Sự lựa chọn của Lý Công Uẩn lại chính là thành của Cao Biền xây dựng trên cơ sở kế thừa các viên quan cai trị của phương Bắc trước kia. Đó là thành Đại La.
Ngài gọi Cao Biền là “Cao Vương”, Ngài khen thành Đại La bằng rất nhiều mỹ tự mà đến nay Chiếu dời đô còn ghi rất rõ: “Ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Tây Đông, lại tiện đường nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi” để khẳng định: “Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi đây là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”…
Ngài phê các bậc tiền nhân của hai triều Đinh và (Tiền) Lê là vì không theo Chu Thương “khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không được thích nghi”…
Chính cái khác với “quốc thống” của Lý Công Uẩn là nhận được cái vị thế địa lý, nước ta là láng giềng của Trung Hoa, một kẻ đô hộ tàn bạo, một đế quốc có sức bành trướng ghê gớm… nhưng lại là một nền văn minh vĩ đại. Bởi vậy, muốn tồn tại bên cạnh cái thế lực đó như một quốc gia tự chủ, không chỉ cần một ý chí “muốn cưỡi sóng lớn chém cá kình ngoài biển Đông” (Bà Triệu) mà còn cần đến sự khôn ngoan biết tiếp thu cái hay, cái khôn của thiên hạ… Nói cách khác là biết hòa hiếu để bảo vệ chủ quyền bền vững. Phải chăng chính cách ứng xử khôn ngoan ấy đã nhận ra cái ý đồ của những nhà cai trị Trung Hoa mà tiêu biểu là Cao Biền đã chọn xây tòa thành của nền cai trị trên vùng đất vốn được gọi là “Rốn rồng” (Long Đỗ) nhằm yểm trị, trói buộc nước ta mãi mãi thành quận huyện của phương Bắc, để với quyền tự chủ của mình, con rồng biểu tượng ấy sẽ được “tháo cũi sổ lồng” vươn mình bay như tên gọi “Thăng Long” mà Lý Công Uẩn đã đặt tên cho kinh đo nước Đại Cồ Việt.
Cũng như vậy, các vua triều Lý kế nghiệp và các triều đại tiếp theo đều theo cái “quốc thống” này mà hành xử. Ta lấy chữ Hán làm quốc tự nhưng vẫn duy trì tiếng nói riêng của mình để phương Bắc dù có xử với ta như quận huyện hay chư hầu, vua ta vẫn nhận sắc phong mỗi lần thay ngôi đổi họ, nhưng một khi chủ quyền bị xâm phạm thì sẽ ứng xử như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi hay Quang Trung… Nhờ thế mà nền tự chủ đến nay đã tròn ngàn tuổi… Đó là câu chuyện ngàn năm.
Còn câu chuyện hơn trăm năm nay thì ta cần nhớ, địa danh Hà Nội mới ngót 180 năm (1831) khi triều Nguyễn tìm mọi cách hạ cấp Thăng Long xưa, nay chỉ còn một góc của tỉnh Hà Nội. Nhưng “thành phố Hà Nội” chỉ mới ngoài 120 năm tuổi kể từ lúc vua Đồng Khánh trao cái không gian Thăng Long xưa của tỉnh Hà Nội cho Pháp làm nhượng địa và Tổng thống của quốc gia phát triển thuộc loại bậc nhất của châu Âu này đã ra sắc lệnh thành lập một “thành phố Hà Nội” (1888).
Chỉ chưa đầy một “hội” 60 năm (1888 - 1945), chủ nghĩa thực dân với sự ưu trội của văn minh phương Tây đã nhận ra vị thế của Hà Nội và biến nó thành một đô thị theo quy chuẩn của phương Tây để trở thành một thủ phủ quan trọng của xứ Đông Dương thuộc Pháp. Cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta đã đánh đổ thiết chế chính trị thuộc địa (cùng với chế độ phong kiến) nhưng lại khai thác những nguồn lực của nền văn minh phương Tây.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần tinh thần truyền thống, luôn coi “dân ta phải biết sử ta” để nhận ra cái bài học của lịch sử: phàm triều đại nào xa rời cái nguyên lý mà Đức Lý Thái Tổ đã từng xác tín về vùng đất “kinh sư của muôn đời” thì sẽ chuốc lấy một số phận ngắn ngủi (như nhà Hồ đã mưu lập Tây Đô) hay suy vong (như nhà Nguyễn đã trở thành triều đại cuối cùng sau khi đã phải cam tâm để mất chủ quyền vào tay giặc ngoại xâm).
Nhà lãnh đạo đất nước Việt Nam độc lập cũng nhìn nhận được những giá trị của nền văn minh phương Tây đã góp phần xác lập vị thế quan trọng của Hà Nội đối với một nước Việt Nam hiện đại để quyết định rằng đó là Thủ đô của nước Việt Nam độc lập.
Nhìn lại 65 năm qua trong 1.000 năm lịch sử, Hà Nội mãi mãi là “kinh sư muôn đời” như Lý Thái Tổ đã đặt tên cho sự khởi đầu bằng một hình tượng đáng tự hào là “Thăng Long”, xứng đáng để chúng ta tôn vinh và tiếp tục phấn đấu.








