Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến ven biển Việt Nam
Thực trạng của thiên tai
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, một trong năm ổ bão của châu Á - Thái Bình Dương, thường xuyên phải đối mặt với các loại hình thiên tai, làm thiệt hại về người và của vô cùng to lớn. Chỉ tính trong 12 năm gần đây (1996 - 2008) các loại thiên tai như: bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn… và các thiên tai khác đã làm thiệt hại đáng kể về người và tài sản. Cụ thể, đã làm chết và mất tích hơn 9.600 người, giá trị tài sản ước tính chiếm khoảng 1,5% GDP/ năm. Dự báo, thiên tai ở Việt Nam ngày càng tăng cả về quy mô cũng như chu kỳ lặp lại kèm theo những đột biến khó lường như: Bão lũ liên tiếp đổ bộ vào miền Trung - Tây Nguyên gây thiệt hại lớn về người và của, TP. HCM phải đối mặt với tình trạng triều cường và ngập úng gia tăng, nắng nóng bất thường vào mùa đông, miền Bắc đang phải đối mặt với nguy cơ hạn hán, mực nước sông Hồng xuống thấp nhất lịch sử 107 năm qua.
Nhận thức rõ ảnh hưởng của BĐKH, nâng cao khả năng giảm thiểu và thích ứng với BĐKH đảm bảo phát triển bền vững lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã ký Quyết định số 2730/QĐ-BNN-KHCN ngày 5/9/2008 ban hành “Khung chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu của ngành NN&PTNT giai đoạn 2008 - 2020”.
Kịch bản nước biển dâng do Bộ TN&MT công bố cho thấy: Giữa thế kỷ XXI mực nước biển có thể dâng thêm 28 - 30 - 33cm, đến cuối thế kỷ XXI mực nước biển dâng thêm từ 65 - 75 - 100cm so với thời kỳ 1980 - 1999. Như vậy, với đường bờ biển dài, hơn 50% đô thị nằm ven biển và vùng có liên quan sẽ chịu tác động trực tiếp của BĐKH nói chung và nước biển dâng nói riêng. Theo nghiên cứu của Cục phát triển đô thị (Bộ Xây dựng), sẽ có 418/754 đô thị bị chịu ảnh hưởng trực tiếp của BĐKH, ngoài ra những khu kinh tế tập trung (là các đô thị trong tương lai) cũng cần được xem xét. Đối với đô thị ven biển, nước biển dâng đồng nghĩa diện tích đất sẽ bị mất đi (ngoài diện tích đất thực mất còn có diện tích đất bị ảnh hưởng), dân phải định cư, tác động đến hạ tầng đô thị như giao thông, cấp thoát nước…
Theo đánh giá của thế giới, Việt Nam, với bờ biển dài hơn 3.260 km và hai vùng đồng bằng châu thổ có cao đọ thấp sẽ là một trong năm quốc gia bị ảh hưởng nặng nề nhất bởi BĐKH. Ước tính hàng triệu hecta đất bị ngập, hàng chục triệu người Việt Nam có thể bị mất nhà cửa nếu nước biển dâng cao, tình trạng đói nghèo có thể tăng 21,2 - 35%, khoảng 27% diện tích rừng bị ngập mặn, 20% diện tích rừng đầm lầy sẽ bị ngập hoàn toàn, xâm nhập mặn gia tăng… Sản lượng lương thực có nguy cơ giảm sút lớn, đe dọa tới an ninh lương thực của đất nước. Chỉ tính riêng năm 2007, thiên tai làm 435 người chết và mất tích, 7.800 ngôi nhà bị sập đổ, 113.800 ha lúa bị hư hại, phá hủy và hư hỏng nặng 1.300 công trình đập, cầu, cống, làm sạt lở 1.500 km đê (thiệt hại ước tính 11.600 tỷ đồng). Đầu năm 2008, trận rét lịch sử 40 ngày đã làm cho hơn 150 ha hécta lúa, 9.600 hécta mạ bị chết, gia súc bị chết rét là 62.603 con (thiệt hại khoảng 200 tỷ đồng). Trong tháng 8 - 2008 và đầu tháng 7 - 2009 mưa lũ và sạt lở ở các tỉnh miền núi phía Bắc cũng đã gây thiệt hại lớn về người và của… Có thể thấy rằng BĐKH tác động rất mạnh đến kinh tế - xã hội và môi trường, là một thách thức hiện hữu cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo và nguy cơ lớn đối với phát triển bền vững cũng như thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ của Việt Nam.
![]() |
Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp
Theo TS. Nguyễn Bỉnh Thìn (Bộ NN&PTNT) đề nghị tăng 30% kinh phí cho BĐKH giành cho phògn tránh, giảm nhẹ thiên tai. Tăng cường công tác nghiên cứu cũng như đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ… TS. Nguyễn Quang, Giám đốc Chương trình Định cư Con người Liên hợp quốc (UN 0 Habitat) tại Việt Nam cho rằng, ngoài những giải pháp mang tính toàn cầu, chúng ta cần có kế hoạch và chương trình hành động để ứng phó với BĐKH. Có nhiều công cụ khác nhau, trong đó vấn đề quy hoạch rất quan trọng. Phải sử dụng công cụ quy hoạch sử dụng đất đai làm công cụ giảm nhẹ hiểm họa trong quá trình phát triển. Khi quy hoạch phải đánh giá được nơi nào đất trũng, nơi nào đất cao đưa ra được loại hình sử dụng thích hợp cho từng khu vực khác nhau. Quy hoạch phải mang tính chiến lược hơn, lồng ghép được các vấn đề BĐKH vào và quy hoạch phải có tính chế tài, có sự tham gia của cộng đồng, người dân phải được cung cấp thông tin, được tham gia để biết phải làm gì để ứng phó BĐKH.
Cũng theo TS Nguyễn Quang, ứng phó với BĐKH không phải là trách nhiệm của riêng ai, mà phải có sự phối hợp tốt giữa các bên liên quan, giữa Nhà nước và nhân dân, xây dựng được kế hoạch phòng, chống thảm họa, phải có kế hoạch thiết kế xây dựng và chỉnh trang đô thị ven biển chống lũ như xây dựng đê và biến đê thành khu vui chơi giải trí như Hà Lan, hay thiết kế nhà ở và sống chung với lũ như ở Băng Cốc (Thái Lan)… đặc biệt, chiến lược ứng phó với BĐKH phải được lồng ghép vào kế hoạch quốc gia, kế hoạch đầu tư và cụ thể hóa bằng những hành động. Đẩy mạnh dự báo theo dõi đánh giá đưa ra cảnh báo chính xác và thông tin kịp thời đến người dân. Nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt nâng cao năng lực nhà quản lý địa phương để họ tham gia tốt vào quá trình giảm thiểu và ứng phó với BĐKH.
Theo các chuyên gia, ngoài giải pháp giãn dân, nâng cấp hạ tầng, khống chế cốt nền, các công trình xây dựng cần được tính toán cụ thể, từ thiết kế đến việc lựa chọn vật liệu, công nghệ thi công phù hợp thì các tiêu chuẩn, quy chuẩn có liên quan của ngành Xây dựng cũng cần cập nhật điều chỉnh phù hợp với tình hình BĐKH…









