Bệnh Whipple
Vài nét về mầm bệnh
Vi khuẩn Whipple là loại có hình gậy khá đồng nhất, dài khỏng 1-2 micromet, rộng 0,2 micromet, có tính chất của vi khuẩn Gr(+). Cho đến nay vẫn chưa nuôi cấy được vi khuẩn này mà cần xác định bằng kỹ thuật khuếch đại gen (PCR).
Nguồn gốc và con đường lây nhiễm vi khuẩn chưa được xác định hết, có thể qua đường máu, qua đường tiêu hóa hoặc qua cả các con đường khác nữa; điều này giải thích vì sao nhiều trường hợp có biểu hiện ở khớp trước khi có biểu hiện ở cơ quan tiêu hóa.
Biểu hiện lâm sàng
Biểu hiện ở cơ quan tiêu hóa: Khi mới khởi phát triệu chứng rối loạn tiêu hóa nhẹ, nhưng cũng có thể khởi phát bởi những triệu chứng tiêu hóa không đặc hiệu như: buồn nôn, nô, chán ăn, trướng bụng, táo bón, hiếm khi có triệu chứng của tắc ruột.
Sau nhiều năm tiến triển, bệnh có triệu chứng rõ ràng đó là đau bụng thường ở vùng thượng vị và gia tăng sau khi ăn; tiêu chảy phân loãng hoặc có mỡ; kèm theo giấy sút cân.
Tuy nhiên, với khoảng 20-25% các trường hợp không có biểu hiện ở cơ quan tiêu hóa, lúc này cần dựa vào các triệu chứng ngoài cơ quan tiêu hóa để định hướng chẩn đoán.
![]() |
Biểu hiện ở khớp: Thường xuất hiện trước các biểu hiện ở cơ quan tiêu hóa hoặc biểu hiện toàn thân. Tổn thương chủ yếu là các khớp ngoại vi với biểu hiện chính là đau khớp; đôi khi phối hợp với viêm cột sống dính khớp; có thể xuất hiện viêm một khớp hoặc nhiều khớp.
Biểu hiện tổn thương ở hệ thần kinh trung ương: nói chung khi có biểu hiện tổn thương ở hệ thần kinh trung ương được xem như một yếu tố tiên lượng xấu, các biểu hiện có thể gặp như lú lẫn, liệt nhãn cầu, rối loạn nhìn, hội chứng suy tuyến yên….
Tổn thương tim mạch: có các biểu hiện đa dạng, có thẻ viêm màng ngoài tim, có thể là viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, đôi khi có tổn thương cơ tim. Viêm động mạch thường phối hợp với tổn thương cơ khí sinh tiết nhưng ít khi có triệu chứng trên lâm sàng.
Ngoài ra, tùy theo mức độ có thể gặp các tổn thương khác như xạm da, nốt dưới da, tràn dịch màng phổi, viêm thận kẽ; các biểu hiện ở mắt như viêm màng bồ đào, viêm giác mạc, viêm và xuất huyết võng mạc.
Với các biểu hiện lâm sàng như trên, việc chuẩn đoán sớm bệnh Whipple thường là khó khăn. Nhưng các biểu hiện lâm sàng thật rõ ràng, nhất là ở cơ quan tiêu hóa thì thường dễ chẩn đoán xác định, chủ yếu dựa vào sinh thiết ruột non vùng tẩm nhuộm để tìm đại thực bào PAS (+) hoặc dùng kỹ thuật khuếch đại gen (PCR).
Điều trị và tiên lượng
Tiên lượng tử vong của bệnh nhân đã thay đổi khi điều trị bằng kháng sinh, giúp chữa lành phần lớn bệnh nhân. Được điều trị bằng kháng sinh, hầu hết bệnh nhân có cải thiện lâm sàng nhanh, tiêu chảy biến mất sau vài ngày, kế đến là đau khớp, hết sốt và lên cân. Các kháng sinh được khuyến cáo sử dung là các kháng sinh có thể qua được hàng rào máu não.
Với các tổn thương khác như hệ thần kinh trung ương, viêm nội tâm mạc, phối đáp ứng với điều trị chậm và ít hơn. Với các trường hợp này, hiện nay khuyến cáo nên điều trị 12 tháng đồng thời cần theo dõi để phát hiện tái phát bằng nội soi và xét nghiệm PCR dịch não tủy.









