Bệnh viêm khớp dạng thấp
Bệnh viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân, có viêm mãn tính màng hoạt dịch của nhiều khớp mà nguyên nhân chưa rõ, bệnh có biểu hiện tại khớp và ngoài khớp. Thông thường, tuổi khởi bệnh từ 20 - 40 tuổi, hầu hết bệnh nhân đều có kháng nguyên HLA - DR4. |
Bệnh thường khởi đầu với tình trạng mệt mỏi, sốt nhẹ và đau di chuyển từ khớp này sang khớp khác, sau đó thì cố định ở một hoặc vài khớp với sưng và cứng những khớp nhỏ như khớp cổ tay, cổ chân, khớp bàn tay, bàn chân… đối xứng ở 2 bên. Đau nhiều về đêm và cứng khớp vào sáng sớm.
Các đợt đâu cứ tiếp diễn và mỗi đợt lại có thêm những khớp khác bị tổn thương. Khớp càng lúc càng đau nhiều hơn dẫn tới hạn chế vận động và mất chức năng. Các khớp bị bệnh sẽ sưng to, nóng, tràng dịch trong ổ khớp. Viêm nhiều khớp và đối xứng hai bên, lan dần tới khớp khuỷu, khớp vai, khớp gối, và những khớp khác nữa.
Dần dần những khớp bị biến dạng và bị cứng. Ở bàn tay, các khớp bị lệch về phía ngón út còn các khớp bàn tay - ngón tay thì bị cố định ở tư thế gấp. Ở bàn chân thì ngón cái bị lệch lên trên, đôi khi bàn chân bị cố định kiểu bàn chân ngựa. Ở khớp gối, nếu không can thiệp chỉnh hình, khớp sẽ bị cố định ở tư thế hơi gấp (tư thế người bệnh ít đau nhất). Lúc đầu những biến dạng còn có thể nắn lại được và do các cơ bị co cứng nhưng sau đó trở nên không phục hồi vì các dây chằng bị co kéo và khớp bị phá hủy.
![]() |
Những tổn thương ngoài khớp
Người bệnh gầy sút, mệt mỏi, ăn ngủ kém, da niêm nhợt nhạt do thiếu máu, lo lắng.
Hạt dưới da:dấu hiệu đặc trưng của bệnh, ở Việt Nam chỉ ghi nhận trong khoảng 5% trường hợp, là các cục cứng, không đau, hình tròn hoặc bầu dục từ 5 - 20mm, dính vào nền xương ở dưới, hoặc mặt trong khớp gối (trên xương chày).
Da khô teo và xơ nhất là ở tay chân. Lòng bàn tay, lòng bàn chân thấy giãn mạch máu, đỏ hồng. Teo cơ quanh khớp tổn thương là do không vận động. Bao khớp có thể phình ra thành các mạng hoạt dịch, ở vùng khớp gối có thể là nang Baker.
Tổn thương nội tạng hiếm gặp trên lâm sàng
Tim:tổn thương cơ tim kín đáo, có thể có viêm màng ngoài tim, rối loạn dẫn truyền (bloc nhĩ - thất).
Phổi:viêm màng phổi (xét nghiệm dịch màng phổi thấy yếu tố thấp dương tính).
Sưng các hạch bạch huyếtnông nhất là hạch nách.
Láchto và giảm bạch cầu trong hội chứng Felty.
Loãng xươngvà gãy xương tự nhiên.
Mắt:viêm mống mắt thể mị, đôi khi viêm màng bồ đào với triệu chứng sợ ánh sáng và chảy nước mắt.
Viêm và xơ dính phần mềm quanh khớp có thể chèn ép vào các dây thần kinh.
Các xét nghiệm cận lâm sàng
- Tốc độ lắng máu tăng, nhất là trong thời kỳ bệnh tiến triển.
- Công thức máu: hồng cầu giảm, thiếu máu, đẳng sắc hoặc nhược sắc. Bạch cầu có thể tăng hoặc giảm.
- Điện di protein: albumin giảm, globulin tăng.
- Phản ứng ngưng kết hồng cầu Waaler - Rose và latex nhằm phát hiện yếu tố dạng thấp trong huyết thanh (tự kháng thể). Các phản ứng này thường dương tính sau khi mắc bệnh trên một năm, tỷ lệ khoảng 70 - 80% trường hợp. Mức độ dương tính của phản ứng không phản ánh mức độ nặng nhẹ của bệnh.
- Xét nghiệm dịch khớp: Dịch khớp lỏng, giảm độ nhớt, protein tăng, bạch cầu tăng. Lượng bổ thể trong dịch khớp giảm so với máu. Yếu tố bệnh thấp dương tính. Phản ứng Waaler - Rose và latex có động dương tính sớm và cao hơn so với máu.
- Sinh thiết màng hoạt dịch (tiến hành ở khớp gối): hình ảnh mô học đặc hiệu bởi sự phì đại và thâm nhiễm lympho bào và tương bào (plasmacyste).
X quang khớp
Giai đoạn đầu thấy loãng xương ở gần đầu xương nhất là ở dưới sụn khớp. Khi sụn khớp đã tổn thương, hình ảnh khớp bị mờ, rồi sau đó là hình ảnh hẹp khe khớp. Sau cùng là hình ảnh hủy hoại phần sụn khớp và đầu xương gây nên dính và biến dạng khớp.
Những hình ảnh tổn thương kiểu hư khớp, nhất là gai xương có thể thấy ở khớp to như khớp gối, khớp vai và khớp háng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán
- Cứng khớp buổi sáng sớm kéo dài hơn 1 giờ.
- Viêm 3 khớp hoặc nhiều hơn.
- Viêm các khớp bàn tay.
- Viêm khớp đối xứng hai bên.
- Có những nốt (cục) dưới da.
- Trong huyết thanh có yếu tố bệnh thấp.
- Hình ảnh X quang đặc biệt (sụn khớp bị trợt hoặc bị ăn mòn hoặc canxi hóa điển hình).
Chẩn đoán lâm sàng được đặt ra nếu những tiêu chuẩn từ 1 - 4 đã có hơn 6 tuần lễ.
Điều trị
Nghỉ ngơi:là yếu tố chủ yếu trong điều trị và phải thích ứng với từng trường hợp riêng biệt. Trong giai đoạn bệnh nặng người bệnh cần nghỉ ngơi tại giường trong thời gian ngắn, bệnh đỡ thì bệnh nhân có thể tiếp tục hoạt động trở lại bình thường một cách từ từ. Trong những đợt bệnh tiến triển để tránh đau và cứng cơ thì phải giúp cho khớp không phải chịu áp lực, như đi nạng nhưng vẫn phải cử động các khớp này để đề phòng cứng khớp. Khi bệnh nhân nghỉ ngơi, phải duy trì các khớp bị bệnh ở tư thế cơ căng bằng cách sử dụng nẹp, nếu cần.
Hoạt động:Để duy trì khả năng vận động của khớp và tránh teo cơ. Lúc đầu phải thực hiện các động tác với sự giúp bên ngoài tới mức giới hạn chưa đau, khi đã cải thiện hơn thì chuyển sang các động tác hoàn toàn chủ động và tập các động tác chống lại lực cản.
Chườm nóng hoặc lạnh tại chỗ:có tác dụng làm giảm cơ và giảm đau.
Thuốc chống viêm:những thuốc này chỉ có tác dụng chữa triệu chứng và không làm thay đổi diễn tiến của bệnh.
Điều trị tại chỗ:Phong bế corticoid trong khớp, trong trường hợp có ít khớp bị bệnh và người bệnh đáp ứng kém với biện pháp điều trị toàn thân. Không được lập lại thủ thuật này trong vòng 3 tháng.
Những điều trị khác:
Các thuốc được cho là có tác dụng trung hạn và làm thay đổi diễn biến của bệnh như: muối vàng, thuốc chống sốt rét chloroquin,…những thuốc ức chế miễn dịch: methotrexat, ciclosporin…cần được chỉ định và do thầy thuốc chuyên khoa theo dõi.
Điều trị những biến dạng khớp:bằng bột thạch cao có thể tháo lắp được và bằng liệu pháp vận động.
Phẫu thuật:cắt màng hoạt dịch tạo hình khớp hông, khớp gối, gây cứng khớp ngón cái.
Diễn tiến của bệnh viêm da khớp dạng thấp là tiến triển nặng dần và khó tiên đoán, có thể có những đợt thuyên giảm không đau và không bị biến dạng khớp kéo dài. Sau khi phát bệnh 10 năm, một nửa số bệnh nhân vẫn có cuộc sống hoạt động tốt.

Bệnh viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân, có viêm mãn tính màng hoạt dịch của nhiều khớp mà nguyên nhân chưa rõ, bệnh có biểu hiện tại khớp và ngoài khớp. Thông thường, tuổi khởi bệnh từ 20 - 40 tuổi, hầu hết bệnh nhân đều có kháng nguyên HLA - DR4. 







