Bệnh ung thư bàng quang
Nguyên nhângây ung thư bàng quang có nhiều, đầu tiên phải kể đến là tiếp xúc với hoá chất độc hại. Có khoảng 50% ung thư bàng quang là do tiếp xúc với khói thuốc lá, đặc biệt là những người hút thuốc liên tục kéo dài trên 20 năm. Bên cạnh đó số ngành nghề phải tiếp xúc lâu dài với hoá chất (Benzidine, beta-naphthylamine, 4-aminophenyl) như công nhân thuộc da, dầu khí, cao su, ngành nhuộm vải…cũng là yếu tố nguy cơ quan trọng gây ung thư. Mặt khác một số bệnh lý gây viêm nhiễm, kích thích bàng quang kéo dài như bệnh sán máng ở bàng quang (Schistosomia haematobium), sỏi hoặc dị vật ở bàng quang…cũng góp phần gây ung thư bàng quang. Ngoài ra ung thư bàng quang cũng liên quan đến di truyền của một số gen trên nhiễm sắc thể số 9 và 11.
Triệu chứng:Đái ra máu là một triệu chứng báo hiệu quan trọng và rất hay gặp. Đái ra máu có đặc điểm là thường xuất hiện một cách đột ngột không kèm theo đau buốt, tuy nhiên lại dễ tái phát. Đa số là đái máu xuất hiện ỏ cuối bãi đái, tuy nhiên một số trường hợp chảy máu nhiều thì đái máu toàn bãi. Máu đái ra có thể là máu tươi, hoặc máu cục hoặc kèm theo các mảnh mô hoại tử. Bên cạnh đó tuỳ theo vị trí, kích thước, và mức độ chèn ép, xâm lấn di căn của khối u mà bệnh nhân còn có nhiều triệu chứng khác nữa. Nếu khối u to nằm sát cổ bàng quang chèn ép đường tiểu từ bàng quang xuống niệu đạo thì bệnh nhân đái khó. Trong trường hợp có viêm bàng quang kèm theo thì bệnh nhân sẽ bị đái buốt, đái rắt, đái đục. Nếu khối u bít hoàn toàn cổ bàng quang người bệnh sẽ không đái được. Nước tiểu bị ứ trong bàng quang làm bàng quang căng phồng lên và người bệnh rất đau đớn, khó chịu, người ta gọi dấu hiệu này là “cầu bàng quang”. Nếu khối u chèn vào lỗ niệu quản làm cho nước tiểu từ thận không xuống bàng quang được, nước bị ứ ở lại ở thận người bệnh sẽ có cơn đau quặn thận. Và thận bị ứ nước lâu ngày sẽ dẫn đến suy thận làm bệnh nhân cao huyết áp và thiếu máu nặng. Và khi khối u đã di căn thì tuỳ theo vị trí di căn mà biểu hiện lâm sàng khác nhau, chẳng hạn di căn vào xương bệnh nhân sẽ bị đau xương, gẫy xương bệnh lý…
Tóm lại, các triệu chứng của ung thư bàng quang rất đa dạng, dễ nhầm với một số bệnh khác ở hệ tiết niệu. Do đó để chẩn đoán chính xác bệnh cần khám chuyên khoa tiết niệu, làm một số xét nghiệm như siêu âm bàng quang, chụp UIV, chụp cắt lớp vi tính, soi bàng quang làm sinh thiết, xét nghiệm sinh hoá máu, công thức máu, xét nghiệm nước tiểu…
Điều trị:Đối với khối u bàng quang nông chưa di căn có thể phẫu thuật nội soi cắt bỏ khối u kết hợp với bơm BCG vào bàng quang hoặc dùng thuốc điều trị hỗ trợ như Mytomycine C, Thiotepa. Với ung thư xâm lấn nhưng còn cư trú ở bàng quang thì phải mổ cắt bàng quang và một số cơ quan lân cận như tuyến tiền liệt, túi tinh, ống dẫn tinh (nam giới), tử cung, phần phụ (nữ giới). Nếu ung thư di căn phải điều trị kết hợp tia xạ và hoá chất. Ngoài ra phải điều trị cả các biến chứng của khối u gây ra như thuốc giảm đau khi bệnh nhân đau đớn, kháng sinh khi có viêm nhiễm.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 79 (1797), ngày 3/10/2005, trang 9