Bệnh thương hàn
Vi khuẩn thương hàn xâm nhập vào cơ thể người và thú qua thức ăn và nước uống. Chúng vào ruột non xâm nhập hệ tuần hoàn lên gan, lá lách sinh sản gia tăng số lượng, sau đó ẩn cư ở túi mật. Nhiều người và thú có nhiễm vi khuẩn (mang trùng) nhưng không phát bệnh và là nơi thường xuyên bài thải vi khuẩn, có thể gây thành đại dịch cho người hay vật nuôi trong vùng. Người mang mầm bệnh nếu làm việc trong lĩnh vực phục vụ ăn uống thì nguy cơ gây bệnh càng cao.
Vi khuẩn thương hàn từ phân có thể lây nhiễm qua nguồn nước, thịt gia súc gia cầm ở lò mổ hoặc qua sữa tươi… Thịt và trứng gia cầm cũng có thể là nguồn lây quan trọng. Chuột, chim, ruồi, nhặng, gián, kiến, bọ hung viên phân… cũng góp phần phát tán mầm bệnh.
Người bị bệnh thường sốt cao, đau đầu, nổi mẩn đỏ ở ngực, bụng, tiêu chảy, gan lách sưng to, suy nhược cơ thể. Xét nghiệm máu và phân có thể tìm thấy vi khuẩn. Sau nhiều tuần, vi khuẩn từ túi mật có thể thải liên tục qua phân và là nguồn lây quan trọng.
Trên heo, bệnh thương hàn thường xảy ra ở lứa tuổi heo choai hoặc heo con. Một số người không tiêu huỷ heo bệnh mà chế biến thành món heo quay để bán. Món heo quay này có nhiều mầm bệnh trong xương do chưa chín, đây là nguồn lây nhiễm cực kỳ nguy hiểm. Ở thú lớn, bệnh có thể sốt cao gây sẩy thai. Gia súc gia cầm non thường tử vong nhiều hơn gia súc gia cầm trưởng thành. Đặc biệt ở gia cầm có sự thoái hoá mang noãn.
Người hoặc động vật mắc bệnh phải dùng kháng sinh và hoá chất trị liệu càng sớm càng tốt, song song với việc cấp bù nước và các chất điện giải. Ampicilline, Trimethoprime, Sulfonamid, fluoroquinolone, Cephalosporine thế hệ thứ ba… là các loại dược phẩm trị liệu công hiệu với vi trùng thương hàn. Nên cung cấp thuốc qua đường uống, nhưng lưu ý với liều cao có thể gây tan xác vi trùng làm phát sinh nội độc tố trong tế bào, vi khuẩn thương hàn vào lòng ruột gây hoại tử và thủng ruột dẫn đến tử vong. Để tránh xảy ra trường hợp này nên dùng kèm thuốc kháng viêm không steroid để giảm thiểu ngộ độc nội độc tố.
Các loại súc sản cần được nấu chín cẩn thận. Cần xét nghiệm và loại thải vật mang trùng (giết thịt và luộc chín), xét nghiệm và điều trị người mang trùng cho đến khi không còn bài xuất vi khuẩn để tránh cho cộng đồng. Phân gia súc gia cầm cần ủ hoai (với nhiệt độ tự lên men của phân đủ để giết vi trùng) rồi mới dùng làm phân bón. Dùng vacxin chủng ngừa cũng là một biện pháp phòng bệnh. Trên gia súc cũng có một số vacxin dùng cho việc bảo hộ đàn thú trong những vùng bệnh đe doạ bùng phát, hoặc vận chuyển vật nuôi từ nơi này đến nơi khác. Tuy nhiên vi khuẩn thương hàn có nhiều týp, nhiều biến chủng nên hiệu lực vacxin thường ngắn và đôi khi không có hiệu quả.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 266, ngày 21/5/2005, trang 36