Bệnh chửa trứng và các biến chứng
Nguyên nhân gây chửa trứng đến nay vẫn chưa rõ ràng, người ta chỉ thấy các tế bào nuôi ở rau thai bị loạn sản và tăng sinh quá mức tạo thành các túi chứa dịch. Bên cạnh đó phải kể đến một số yếu tố thuận lợi: chửa trứng thường gặp ở những phụ nữ trên 40 tuổi hoặc dưới 20 tuổi, những người có thai nhiều lần, những người có mức sống thấp, chế độ dinh dưỡng không đầy đủ như thiếu hụt vitamin A trong khẩu phần ăn.
Triệu chứng
Ban đầu, người bị chửa trứng cũng có biểu hiện mang thai giống như những trường hợp khác, trước hết là tắt kinh, sau đó là nghén. Tuy nhiên những người chửa trứng thường nghén rất nặng, nôn nhiều, ăn vào lại nôn, nôn ra mật xanh, mật vàng, người gày sút. Một số trường hợp còn bị phù và cao huyết áp. Bên cạnh thai nghén nặng, thai phụ còn bị ra máu âm đạo (hay sảy ra từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 16 của thai kỳ), máu đen hoặc đỏ, dai dẳng, ít một, có thể tự cầm trong một thời gian ngắn. Do mất máu nên thai phụ mệt mỏi, xanh xao, niêm mạc nhợt nhạt, hay bị hoa mắt chóng mặt. Một triệu chứng điển hình nữa là tử cung của người chửa trứng to quá mức không tương xứng với tuổi thai, có trường hợp chửa trứng mới 2-3 tháng mà tử cung đã to như người có thai bình thường 5-6 tháng. Tuy vậy khi sờ, nắn bụng thai phụ thì thấy mềm và không thấy khối thai, nếu làm siêu âm thì không thấy âm vang thai mà chỉ thấy hình ảnh của các túi dịch. Mặt khác nhiều người bệnh còn bị hồi hộp, run tay, vã mồ hôi do hormon thai nghén tăng cao. Ngoài ra trong quá trình tiến triển của chửa trứng dễ xuất hiện các biến chứng rất nguy hiểm như sảy thai trứng gây băng huyết nặng, hoặc thủng tử cung do thai trứng ăn sâu vào lớp cơ tử cung.
Một biến chứng ác tính nguy hiểm nữa của chửa trứng là ung thư tế bào nuôi (khoảng 10% - 30% các ca chửa trứng). Ung thư nguyên bào nuôi thường xâm lấn sâu vào lớp cơ tử cung gây hoại tử, chảy máu và di căn xa đến các phủ tạng khác của cơ thể, làm việc điều trị rất khó khăn.
Tóm tại, các biểu hiện của chửa trứng rất đa dạng, dễ nhầm với một số bệnh lý sản phụ khoa khác như thai chết lưu, u xơ tử cung, chửa ngoài tử cung…Do đó, để chẩn đoán chính xác bệnh phải khám chuyên khoa sản, làm một số xét nghiệm như siêu âm bụng, định lượng HCG, estrogen máu, làm công thức máu, chụp X quang bụng.
Điều trị
Cần phải nạo hút thai trứng sớm để phòng sảy thai gây băng huyết, sau 2-3 ngày lại phải nạo lại lần thứ 2 và sau nạo phải dùng kháng sinh để phòng nhiễm trùng. Riêng đối với những phụ nữ trên 40 tuổi, hoặc đã có đủ con không muốn có con nữa thì có thể áp dụng biện pháp cắt toàn bộ tử cung mà không cần nạo trứng trước. Mục đích của cắt tử cung là làm giảm nguy cơ biến chứng thành bệnh ung thư tế bào nuôi. Một điểm cần lưu ý nữa là sau khi nạo thai trứng thì bệnh nhân phải được theo dõi ngoại trú và khám định kỳ trong thời gian ít nhất là hai năm theo chỉ định của bác sĩ. Mục đích là để phát hiện và xử trí kịp thời các biến chứng của chửa trứng. Trong thời gian theo dõi bệnh nhân không được có thai, chỉ sau hai năm theo dõi mà không thấy có biến chứng gì thì mới nên có thai lại. Và lần có thai sau thời han hai năm này cũng phải được khám thai và theo dõi chặt chẽ.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 83 (1801)