Bảo vệ môi trường nông thôn gắn với phát triển bền vững
Trong những năm qua, Hội Nông dân các cấp đã phát huy tính năng động, tích cực huy động mọi nguồn lực từ các chương trình, dự án trong nước, nước ngoài, vốn tín dụng, vốn đóng góp của người dân để xây dựng các mô hình điểm về cấp nước sạch và BVMT nông thôn làm điểm tuyên truyền nhân rộng. Có thể kể đến những mô hình sau:
Mô hình điểm thu gom xử lý chất thải:Trước những bức xúc về ô nhiễm môi trường do rác thải trong sinh hoạt và sản xuất, Hội Nông dân Việt Nam đã xây dựng các mô hình điểm thu gom, xử lý chất thải, rác thải như “Hầm khí sinh học liên hoàn”, “Hầm biogas và bể chứa rác”, “Thu gom, phân loại và xử lý rác thải nông thôn”, “Xử lý chất thải làng nghề”; “Nhà tiêu hợp vệ sinh và hố rác tự phân hủy”.Các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Bắc Giang, NamĐịnh, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Đăk Lăk, Kon Tum, Long An… xây dựng được hàng vạn hầm biogas và bể xử lý rác thải, trang bị xe chở rác, thùng rác, xây hố rác, bể chứa rác. Hội Nông dân huyện Đan Phượng (Hà Nội) đã vận động nông dân đầu tư trên 14 tỷ đồng để xây dựng trên 4.000 hầm khí biogas; xã Vĩnh Lâm (Vĩnh Linh – Quảng Trị) đã có 135 hộ gia đình tự xây dựng hầm biogas. Nhiều nơi đã thành công với mô hình 3 công trình vệ sinh, điển hình như mô hình “Xây dựng nhà tiêu hai ngăn hợp vệ sinh và bể chứa nước sạch”tại xã Thiên Lộc (Can Lộc - Hà Tĩnh); mô hình “Di rời chuồng chăn nuôi ra xa nhà ở”tại xã Hưng Vũ (Bắc Sơn - Lạng Sơn); mô hình xây chuồng chăn nuôi hợp vệ sinh do tổ chức Unicef tại 3 xã Hà Ra, Đăk Jắ, Kon Dỡng (Măng Yăng - Gia Lai).
Mô hình cấp nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn:Hội Nông dân các cấp đã huy động mọi nguồn lực với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; tùy thuộc vào đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế của từng vùng để xây dựng hàng vạn công trình cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn nhỏ lẻ, lựa chọn những công nghệ cấp nước sạch cho phù hợp. Các cấp Hội đã vận động và khuyến khích người dân sử dụng lu, bể chứa nước mưa để tận dụng nguồn nước mưa; đối với những vùng núi cao, địa bàn dốc đã vận động, huy động kinh phí để xây dựng hệ thống cấp nước tự chảy, vừa tận dụng được nguồn nước tự nhiên, kinh phí lại thấp nhưng bảo đảm tiêu chuẩn nước cho sinh hoạt. Điển hình như mô hình cấp nước sạch hệ tự chảy ở các xã: Cao Chương, Bế Triều và Cô Mười (Cao Bằng); xã Cường Lợi, xã Nà Tình (Lạng Sơn); xã Tân Thịnh (Văn Chấn - Yên Bái); thôn Khuôn Bén, xã Công Đa (Yên Sơn - Tuyên Quang); xã Bảo Nhai (Bắc Hà - Lào Cai) và xã An Cư (Tịnh Biên - An Giang) đã cung cấp nước sạch ổn định cho khoảng 3.000 người. Mô hình xây dựng 110 bể lọc “Xử lý nước bị ô nhiễm Asen”cho 110 hộ thuộc xã Đức Lý (Lý Nhân - Hà Nam). Mô hình chặn suối xây hồ chứa, tạo nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt ở huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước…
Mô hình sản xuất nông nghiệp gắn với BVMT bền vững:Trung ương Hội đã chỉ đạo Hội Nông dân tỉnh Vĩnh Phúc, Hưng Yên và TP. Hà Nội xây dựng thí điểm mô hình nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp bền vững. Đặc biệt, đã tranh thủ sự giúp đỡ của tổ chức Đan Mạch (ADDA) để triển khai dự án Nông nghiệp hữu cơ tại một số tỉnh như: Tuyên Quang, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng… Thông qua mô hình, người dân được tập huấn kỹ thuật và quy trình canh tác bằng phân hữu cơ, phân vi sinh, kỹ thuật phòng trừ sâu, bệnh bằng thuốc sinh học, hoàn toàn không sử dụng hóa chất. Cây trồng sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh, cho năng suất cao, đặc biệt các sản phẩm thu được đều là nông sản siêu sạch, chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu trong nước đang ngày một cao về chất lượng, về sự an toàn của lương thực, thực phẩm, môi trường sinh thái đã được cải thiện. Người dân đã tránh được các hóa chất độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Từ việc xây dựng mô hình điểm, Hội phát động phong trào “Nông dân sản xuất chế biến và sử dụng các sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh”. Mô hình sản xuất rau sạch được nhiều tỉnh, thành trong cả nước học tập và nhân rộng như tỉnh Lâm Đồng, các huyện ngoại thành của TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh; mô hình nhà vườn xanh - sạch - đẹp ở Bạc Liêu. Để sử dụng kiến thức bản địa trong đời sống, sản xuất vào BVMT bền vững, Hội đã tiến hành khảo sát, xây dựng mô hình thí điểm “Đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng cọn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp trên ruộng bậc thang tại xã Độc Lập (Quảng Uyên - Cao Bằng), “Đồng bào dân tộc Thái lưu giữ và phát triển ruộng bậc thang, canh tác bền vững trên đất dốc” tại xã Phù Nham (Văn Chấn - Yên Bái); “Trồng cây bản địa ngăn mặn xâm thực, bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi trường”tại Vạn Yên (Vân Đồn - Quảng Ninh)… đã giúp cho người dân sử dụng năng lượng sức nước, cải tạo đất chống xói mòn, thoái hóa đất để phát triển sản xuất, từ đó tuyên truyền người dân bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, BVMT.
Những khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn không ít những khó khăn, hạn chế: Một là,về nhận thức, ý thức BVMT trong hội viên nông dân và cộng đồng dân cư nông thôn. Việc khai thác tài nguyên, sử dụng, công nghệ hóa chất, đốt phá rừng, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất thải, khí thải và rác thải của các khu công nghiệp, khu đô thị và làng nghề, thói quen sinh hoạt thiếu vệ sinh ở một số vùng nông thôn (chưa có nhà tiêu hoặc chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh) làm suy thoái và ô nhiễm môi trường. Hai là,công tác đào tạo cán bộ hội chuyên làm công tác môi trường chưa được thường xuyên, liên tục. Nhiều gương người tốt, việc tốt, nhiều mô hình hay chưa được nhân rộng; kinh phí xây dựng mô hình quá hạn hẹp; quy mô nhỏ. Ba là, việc thực hiện pháp luật BVMT ở một số nơi còn chưa nghiêm dẫn đến gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp về đất đai và môi trường chưa chặt chẽ, kịp thời, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và phát triển sản xuất của nông thôn. Bốn là, sự phối hợp giữa Hội Nông dân với các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ và chưa tạo cơ hội cho các đoàn thể (nhất là Hội Nông dân) được tham gia các chương trình, dự án lớn về BVMT nông thôn và ứng phó với biến đổi khí hậu
Các cấp Hội Nông dân Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
Gắn nội dung BVMT nông thôn với công tác xây dựng củng cố tổ chức Hội và phong trào nông dân phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng đời sống văn hóa, sức khỏe ở khu dân cư với các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ an ninh quốc phòng, giải quyết việc làm và vệ sinh an toàn lao động, an toàn thực phẩm.
Chủ động xây dựng kế hoạch phối hợp với các cơ quan chuyên môn, nhà khoa học, tiến hành điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp ưu tiên, góp phần giảm thiểu ô nhiễm, ngăn ngừa và hạn chế tốc độ suy thoái, cạn kiệt tài nguyên nông thôn.
Gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với việc lập kế hoạch triển khai thực hiện, quản lý, duy tu, bảo dưỡng và giám sát xây dựng theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và được hưởng lợi”.
Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn phát hiện và xây dựng nhiều mô hình tại chỗ, tạo điều kiện cho các hộ khác đến tham quan, trao đổi, học hỏi và chia sẻ thông tin, phổ biến kinh nghiệm và nhân rộng.
Thường xuyên vận động, hướng dẫn nông dân cải thiện nguồn nước sinh hoạt, thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hóa “Ăn sạch, ở sạch, uống sạch”, mỗi người có ý thức giữ gìn vệ sinh gia đình và nơi công cộng; duy trì các phong trào dọn vệ sinh, khơi thông cống rãnh, thu gom xử lý rác thải trong tuần; xây dựng chi tổ Hội nông dân hoặc câu lạc bộ nông dân làm dịch vụ cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn…








