Bảo vệ môi trường đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững
Quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
Ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TƯ về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiếp đó, để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 29-CT/TƯ về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TƯ của Bộ Chính trị. Trong thời gian qua, Quốc hội đã thông qua Luật BVMT (năm 2005). Luật Đa dạng sinh học (2008) và đang xem xét thông qua nhiều văn bản luật khác trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường (TN&MT). Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật và triển khai các Nghị quyết của Quốc hội. Thủ tướng Chính phủ thông qua Chiến lược quốc gia về BVMT; Định hướng phát triển bền vững đất nước. Kịch bản biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng; Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với BĐKH. Đặc biệt. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã vạch ra những nhiệm vụ rất cơ bản trong công tác BVMT và phát triển bền vững.
Quán triệt và thực hiện đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thời gian qua công tác BVMT đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường đã được kiện toàn một bước. Tổng cục Môi trường được thành lập với vai trò quản lý, tổ chức và điều phối các hoạt động BVMT trên phạm vi cả nước. Lực lượng cảnh sát môi trường được hình thành, hoạt động ổn định, phát huy tác dụng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm về môi trường. Ủy ban BVMT lưu vực các sông lớn, tổ chức quản lý môi trường ở địa phương được thiết lập và lừng bước phát huy hiệu quả. Các dự án đầu tư cải thiện môi trường, chi thường xuyên cho công tác BVMT được được bảo đảm ở mức tốt hơn. Nhìn chung, các điều kiện cơ bản, thiết yếu làm tiền đề, tạo thế và lực cho công tác BVMT thời gian tới được bảo đảm.
Được sự quan tâm chi đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, người dân và toàn xã hội, công tác BVMT đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức về trách nhiệm, ý thức BVMT trong xã hội được nâng cao. Nhiều vụ việc lớn, vấn đề môi trường bức xúc, kéo dài được giải quyết dứt điểm (trường hợp VEDAN là một ví dụ). Các giải pháp BVMT phục vụ nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng được bảo đảm. Đã xuất hiện nhiều mô hình thành phố xanh, khu đô thị, khu công nghiệp, cơ sở sản xuất xanh, mô hình kinh tế sinh thái gắn phát triển kinh tế với BVMT. Các ngành, lĩnh vực huy động được nhiều nguồn lực, sự hỗ trợ của quốc tế và từng bước chủ động ứng phó với BĐKH.
Chất lượng môi trướng vẫn đang xấu đi rất nhanh
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta vẫn phải thừa nhận một thực tế là, chất lượng môi trường đang xấu đi rất nhanh. Ô nhiễm lan rộng, mức độ trầm trọng hơn. Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác tràn lan, quá mức, thiếu sự kiểm soát. Nguồn nước mặt, nước ngầm nhiều nơi bị suy thoái, cạn kiệt, đã xuất hiện các "dòng sông chết". Hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có hệ thống xử lý chất thải tập trung, còn nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi trường chưa được xử lý triệt để. Đa dạng sinh học suy giảm mạnh, gây mất cân bằng sinh thái ở nhiều nơi. BĐKH kéo theo triều cường, thiên tai, thảm họa diễn biến phức tạp, khó lường. Chỉ tính riêng năm 2009, đã có 11 cơn bão, triều cường ảnh hưởng đến nước ta, làm chết 435 người; làm đổ trôi 13.354 ngôi nhà; làm ngập úng, hư hại 237.799ha lúa; làm vỡ 9.424ha ao, hồ nuôi tôm cá; làm sạt, trôi, bồi lấp 3.033.202m 3đất công trình thủy lợi và 10.321.193m 3đất công trình giao thông,... ước tổng thiệt hại là 23.300 tỷ đồng. Thực tế này đang gây cản trở to lớn đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội, đe dọa nghiêm trọng sự phát triển bền vững của đất nước.
Những vấn đề bức xúc về môi trường trên đây là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Thể chế, chính sách về BVMT và phát triển bền vững vẫn chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Kinh tế phát triển theo chiều rộng, dựa nhiều vào khai thác tài nguyên. Nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất còn sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh gây áp lực lớn lên môi trường trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều khó khăn. Tư duy coi trọng tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ trách nhiệm BVMT vẫn còn phổ biến. Đầu tư của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cho BVMT chưa đáp ứng được yêu cầu. Thể chế và hệ thống tổ chức quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu nhân lực, nhất là ở các địa phương. Khâu tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém. Thiếu cương quyết trong xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật về BVMT.
Kinh nghiệm cho thấy, những quốc gia đi theo con đường hy sinh môi trường để tăng trưởng kinh tế đều phải trả giá đắt cho sai lầm này. BVMT phải là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Coi phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên. Kết hợp phát huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong BVMT và phát triển bền vững. Công tác này đòi hỏi phải tập trung, kiên trì, giải quyết một cách hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, tiến hành đồng bộ các biện pháp một cách thường xuyên, liên tục với quyết tâm cao nhất.
Những giải pháp đột phá
BVMT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của các cấp các ngành và toàn xã hội. Vì mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, chúng ta cần phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm và có những giải pháp đột phá quyết liệt:
Thứ nhất,chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình "tăng trưởng xanh" trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với BVMT, ứng phó với BĐKH, tiến tới xây dựng nền "kinh tế xanh". Sau khủng hoảng kinh tế, cơ hội rất lớn cho việc tái cấu trúc các ngành kinh tế, lựa chọn mô hình tăng trưởng bền vững hơn. Cần phải coi trọng yếu tố môi trường trong tái cơ cấu kinh tế, tiếp cận các xu thế tăng trưởng bền vững và hài hòa trong phát triển ngành, vùng phù hợp với khả năng chịu tải môi trường, sinh thái cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên và trình độ phát triển. Đã đến lúc mói không" với tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Những bài học về xây dựng nền "kinh tế xanh" của các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có điều kiện tương tự như Việt Nam, rất có giá trị để chúng ta tham khảo. Tăng trưởng kinh tế phải đồng thời với BVMT, ứng phó với BĐKH. BVMT, ứng phó với BĐKH cũng phải thay đổi theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc làm, hỗ trợ để đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.
Thứ hai,đẩy mạnh kinh khoa, chuyển đổi nhanh, mạnh cơ chế nặng về "bao cấp", "xin - cho" trong quản lý tài nguyên và BVMT sang cơ chế thị trường nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, nâng tầm đóng góp của ngành TN&MT trong nền kinh tế quốc dân. Nhất thiết phải đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm trong quản lý tài nguyên và BVMT cho phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên phải là các loại hàng hóa đặc biệt, môi trường phải có giá, ai hưởng lợi từ TN&MT đều phải trả tiền, ai làm suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường phải trả chi phí cải tạo phục hồi. Các cơ chế "bao cấp", "xin - cho" trong khai thác, sử dụng tài nguyên không còn phù hợp phải được loại bỏ hoặc thay thế. Các cơ chế đấu thầu, đấu giá và các công cụ kinh tế hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường phải được áp dụng phổ biến. Các loại thị trường trong lĩnh vực TN&MT phải hoạt động công khai, minh bạch và hiệu quả. Lợi ích thu được tờ TN&MT phải được tái phân bổ công bằng, hợp lý, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của người dân. Sớm nhận ra nguy cơ và có biện pháp phòng tránh "lời nguyền về tài nguyên" ở nước ta.
Thứ ba,hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, chuẩn bị cơ sở pháp lý cho ứng phó với BĐKH theo hướng thống nhất, công thằng, hiện đại và hội nhập, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng Bộ luật môi trường, hình thành hệ thống các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ trách nhiệm và thiếu khả thi. Hệ thống pháp luật về môi trường phải tương thích, đồng bộ trong tổng thể hệ thống pháp luật chung của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư,rà soát quy hoạch và chú trọng đầu tư cho công tác quy hoạch trên cơ sở tăng cường lồng ghép môi trường với quan tâm chính trị cao hơn nữa. Cần có cuộc cách mạng về công tác quy hoạch với tầm nhìn dài hạn 50 - 100 năm trên cơ sở cân nhắc lồng ghép yếu tố BVMT với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các ngành, các cấp Xây dựng Chiến lược ứng phó với BĐKH, nước biển dâng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, theo hướng thích ứng để sống chung với BĐKH. Với những thông tin và số liệu hiện có, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, Việt Nam là một trong số các nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH. Nhiều vùng ven biển, một phần lớn đồng bằng sông Hồng, sông Mê Công sẽ bị ngập trong nước biển trong thế kỷ tới. Thiên tai, bão. lũ, hạn hán sẽ gia tăng về quy mô và mức độ khốc liệt. An ninh lượng thực có khả năng bị đe dọa trong tương lai không xa. Vì vậy, cần phải có chiến lược ứng phó hiệu quả với BĐKH phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trước mắt, phải tăng cường công lác dự báo, cảnh báo, tuyên truyền, phổ biến thông tin, kiến thức, hình thành ý thức phòng tránh, thích ứng với BĐKH ở các ngành, các cấp, từng khu vực và trong toàn xã hội, chuẩn bị sẵn sàng cho mọi sự biến đổi bất lợi của khí hậu, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Thứ năm,kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường với tầm nhìn 10 - 20 năm cho một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ ngày càng phức tạp, nặng nề, đáp ứng yêu cầu về môi trường cho phát triển nhanh, bền vững; tạo cơ chế để huy động các thành phần kinh tế, toàn xã hội và tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế cho công tác BVMT, ứng phó với BĐKH. Trước mắt, tập trung kiện toàn, nâng cao năng lực quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là cấp huyện. cấp xã theo hướng phải có cán bộ chuyên trách có chuyên môn, hiểu biết về môi trường. Nghiên cứu hình thành các cơ chế xét xử tài phán về môi trường, các tổ chức chứng nhận, công nhận về môi trường đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mọi người dân tham gia BVMT, làm kinh tế từ môi trường. Tạo điều kiện, hỗ trợ để các tổ chức phản biện xã hội về môi trường, các hội, hiệp hội về thiên nhiên và môi trường hình thành, lớn mạnh và phát triển, đóng góp tích cực trong hoạt động BVMT.
Thứ sáu,xây dựng nền văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật BVMT. Cần tạo bước chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức sang hành động cụ thể. Lấy chỉ số đầu tư cho môi trường, kết quả hoạt động BVMT cụ thể để đánh giá. Sớm đưa tiêu chí môi trường vào trong các hoạt động bình chọn, xét thi đua, khen thưởng.
Môi trường là vấn đề toàn cầu, là một trong ba trụ cột chính để đất nước phát triển nhanh và bền vững, sẽ là mối quan tâm lớn nhất của nhân loại trong những thập kỷ tới. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng là kim chỉ nam cho cho chúng ta trong hoạt động BVMT, ứng phó với BĐKH và phát triển bền vững đất nước trong thời gian tới.








