Bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên hai đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hnafh Trung ương Đảng khóa X đã ban hành nghị quyết số 09 – NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Đây là bản Nghị quyết toàn diện về biển mở ra một thời kỳ mới trong tư duy về biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Bản Nghị quyết có đoạn viết: Thế kỷ XXI được thế giới xem là “Thế kỷ của đại dương”. Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây dựng Chiến lược biển. Khu vực Biển Đông, trong đó có vùng biển Việt Nam, có vị trí kinh tế và địa chính trị rất quan trọng. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh rõ vị trí, vai trò đó. Với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, ngày nay biển càng có vai trò lớn hơn đối với sự nghiệp phát triển đất nước.
Trước tình hình mới của đất nước, phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia với biển, đảo và vùng trời của tổ quốc, đòi hỏi nước ta phải có chiến lược biển toàn diện nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược biển đến năm 2020 xác định mục tiêu tổng quát: “phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển làm giàu từ biển, đảm bảo vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh”. Xuất phát từ tình hình thực tế, nhằm thực hiện mục tiêu trên, giải pháp trước tiên được xác định là: “Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, có hệ thống trong nhân dân nhằm nâng cao vào sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân và đặc biệt đối với ngư dân. Ý thức về biển phải được thể hiện đầy đủ trong chính sách phát triển của những ngành có liên quan và 28 tỉnh thành ven biển”.
Vì tầm đặc biệt quan trọng của biển nên biển Việt Nam phải được quản lý, khai thác và phát triển một cách bền vững. Chúng ta có 3.260 km bờ biển và hơn 3.000 đảo lớn nhỏ thuôc 28 tỉnh thành phố ven biển với gần 50 triệu cư dân, trong đó phần lớn có cuộc sống gắn liền với biển. Vì thế, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước là: phải chủ động và tích cực thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường biển. Mục tiêu phấn đấu của nước ta đến năm 2020 là kinh tế biển và vùng ven biển đóng góp khoảng 53 – 55% tổng GDP của cả nước; giải quyết tốt vấn đề xã hội, cải thiện đời sống nhân dân với mức thu nhập đầu người ở ven biển cao gấp đôi so với cả nước; xây dựng một số thương cảng, một số khu kinh tế mạnh và cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp thống nhất về biển. Định hướng chiến lược là đẩy mạnh điều tra cơ bản về tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển, phát triển khoa học công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng, hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh, tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh trên biển. Đến năm 2020, phát triển thành công, có bước đột phá về biển trên 5 lĩnh vực: khai thác chế biến dầu khí, kinh tế hàng hải, khai thác và chế biến hải sản, du lịch biển và kinh tế hải đảo, xây dựng các khu kinh tế biển gắn liền với các đô thị ven biển.
Để thực hiện mục tiêu theo định hướng của chiến lược nêu trên, Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra hệ thống 9 nhiệm vụ và giải pháp đồng bộ; trong đó chú trọng nâng cao nhận thức về vị trí và vai trò của biển, xây dựng lực lượng để bảo vệ chủ quyền, điều tra cơ bản tài nguyên và phát triển khoa học công nghệ biển, phát triển tổng thể kinh tế xã hội, quản lý nhà nước có hiệu quả và hiệu quả vùng biển, xây dựng hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường công tác đối ngaoij và hợp tác quốc tế. Trước khi có Nghị quyết Trung ương 4, ngày 1 – 3 – 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 47 phê duyệt “Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên – môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”; trong đó xác định rõ 4 quan điểm chỉ đạo với 4 mục tiêu cụ thể đến năm 2010 và 3 mục tiêu cụ thể đến năm 2020, kèm theo danh mục 20 nhiệm vụ - dự án với tổng kinh phí gần 3.000 tỷ đồng. Đây là một chương trình lớn của quốc gia có ý nghĩa đặc biệt đối với các tỉnh ven biển.
Biển và đại dương được các nhà khoa học gọi là “lục địa xanh”, phủ kín 70,8% bề mặt trái đất đang “cất giấu” những kho nguyên liệu, khoáng vật khổng lồ dưới dạng hòa tan trong nước, lắng đọng dưới đáy và vuiv kín dưới lòng đại dương. Do có đặc thù như vậy nên nhiều vùng biển, đại dương là nơi tranh chấp trên thế giới, nhất là đối với những nước lớn ở gần biển và đại dương có sức mạnh.
Vùng biển Việt Nam thuộc Biển Đông, biển lớn thứ nhì trong các biển ở ven Thái Bình Dương và đứng thứ 3 trên thế giới (với diện tích toàn bộ 3.447.000 km2 và thể tích 3.928.000 km3). Biển Đông hoàn toàn nằm trong vành đai nhiệt đới, có tính chất một biển kín bao bọc chung quanh bởi lục địa châu Á và các quần đảo Indonesia và Philippin. Độ sâu trung bình của Biển Đông là 1.140 m và nơi sâu nhất là 5.420m. Ở phía Bắc tại Vịnh Bắc bộ Việt Nam và phía Nam tại Vịnh Thái Lan, thềm lục địa lan ra rất rộng, không chỗ nào sâu quá 100m. Trong biển có nhiều quần đảo và đảo, phần lớn là các nhánh núi ngầm từ lục địa ăn ra. Thềm lục địa rộng và nông là nơi tập trung nhiều mỏ, chủ yếu là trầm tích và mỏ nguồn gốc hữu cơ.
Vùng biển nước ta (bao gồm cả vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) với khoảng 1 triệu km2 (gấp 3 lần diện tích đất liền), là vùng xung yếu của Biển Đông với bờ biển dài 3.260 km; nằm gọn trong phần phía Tây “vành đai quặng thiếc Thái Bình Dương”, tập trung một trữ lượng “caxitorit” (thành phần trên 70% là thiếc) bằng 75% thiếc thế giới. Dạng khoáng sản công nghiệp phổ biến chung trên toàn khu vực bờ biển Việt Nam là các sa khoáng kim loại hiếm, chủ yếu là Thiếc, Titan, Silicon…
Với bờ biển dài đứng thứ 2 trong 157 quốc gia ven biển, cứ 100 km2 đất liền, ta có 1 km bờ biển, cao gấp 6 lần chỉ số trung bình của thế giới. Cứ khoảng 20 km bờ biển, ta có một cửa sông, cửa lạch, 2.779 đảo ven bờ, trong đó có đảo rộng từ 100 km2 trở lên (như đảo Phú Quốc, diện tích hơn 600 km2, gần bằng quốc đảo Singapore), 22 đảo rộng từ 10 km2 trở lên; 112 cửa sông, nhiều hải cảng quan trọng (Hòn Gai, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn, Cần Thơ…) nối liền với nội địa.
Có 2 quần đảo lớn: Quần đảo Hoàng Sa chiếm khoảng trên 15.000 km2, có hơn 30 đảo, bãi đá, bãi cạn. Quần đảo Trường Sa có trên 130 đảo lớn nhỏ (đảo san hô, mỏm đá nổi và chìm) chiếm khoảng rộng trên biển từ 160.000 km2 đến 180.000 km2, gấp 10 lần quần đảo Hoàng Sa. Diện tích các đảo và bãi đá nhô lên mặt nước khoảng 10 km2… theo tài liệu điều tra nghiên cứu bước đầu, có khoảng 770 loài trong 111 họ của 12 ngành động vật không xương sống. Tôm có khoảng 250 – 3000 loài. Cá có khoảng 2.000 loài thuộc nhiều loại. Trữ lượng cá trong vùng biển Việt Nam khoảng 2.875 đến 3.025 nghìn tấn, và sản lượng khai thác hàng năm là 1.242 đến 1.392 nghìn tấn, trong đó có cá tầng đáy khoảng 672 nghìn tấn và cá nổi khoảng 620 đến 720 nghìn tấn.
Ngoài ra, Biển Đông còn là con đường giao thông rất thuận tiện, dẫn đến hầu hết các nước trong vùng Đông Nam Á đông dân và giàu tài nguyên; là đường giao thông nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương qua eo biển Malacca. Chính vì tầm quan trọng vừa có tính khu vực, vừa có tính toàn cầu mà Biển Đông trở thành nơi tranh chấp quyết liệt giữa các quốc gia có chủ quyền trên biển, giữa các quốc gia và các thế lực lấn chiếm trong việc tranh giành tài nguyên biển. Xuất phát từ giá trị biển và đại dương, là một quốc gia biển, chúng ta cần nhận thức đầy đủ về việc ra sức phát triển kinh tế biển và nâng cao trách nhiệm bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới (CQANBG) theo phương hướng nghị quyết Trung ương 4 khóa X của Đảng. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần có tư duy mới về biển và đại dương. Biển và đại dương không còn là tự do trên biển cả mà là nơi tranh chấp của nhiều nước trên thế giới. Cần nhận thức rõ mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực xâm lược khác đối với biển và đại dương nói chung, đối với Biển Đông và vùng biển Việt Nam nói riêng. Từ đó, có nhận thức đúng về bảo vệ CQANBG của Tổ quốc. Nhận thức đúng vai trò của Biển Đông với sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam trước mắt cũng như lâu dài. Nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa khai thác, phát triển kinh tế biển, bảo vệ vùng biển để ra sức phát triển kinh tế, phát triển sản xuất. Mặc khác, bảo vệ vững chắc CQANBG vùng biển Việt Nam, chống mọi hoạt động lấn chiếm, mọi hoạt động xâm nhập móc nối, điều tra tình báo, phá hoại môi trường và mọi mưu đồ xâm lược của các thế lực bành trướng.
Bên cạnh đó, cần ra sức xây dựng cho mọi người dân, đặc biệt là người dân vùng biển có “ý thưc biển” vì biển là một nguồn tài nguyên to lớn đối với kinh tế của ta. Một nước có bờ biển dài, thềm lục địa rộng, nhiều tài nguyên như nước ta, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, muốn tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, muốn trở thành một nước mạnh mẽ về kinh tế và quốc phòng nhất định phải có “ý thức biển”. Coi trọng việc khai thác phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển là hai mặt của “ý thức biển”, là tư duy cần phải có trong chúng ta. Nhận thức rõ vùng biển của nước ta đa dạng, phong phú, nhiều tiềm năng, có điều kiện để phát triển kinh tế biển. Đó là cánh cửa lớn rộng mở để nước ta vươn mình ra đại dương và thế giới nhằm chủ động hội nhập và hội nhập có hiệu quả cao.








