Bảo vệ chủ quyền biển đảo để phát triển bền vững đất nước
28 trong số 63 tỉnh/thành phố nước ta nằm ven biển, diện tích các huyện ven biển chiếm 17% tổng diện tích cả nước và là nơi sinh sống của hơn 1/5 dân số cả nước.
Việt Nam là quốc gia có 3 mặt giáp biển, đặc biệt trong đó Biển Đông đóng vai trò sống còn. Đây là một trong 6 biển lớn nhất của thế giới, nối hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, có 9 quốc gia bao bọc: Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Đây cũng là con đường chiến lược của giao thương quốc tế, có 5/10 tuyến đường hàng hải lớn nhất của hành tinh đi qua. Hàng năm, vận chuyển qua biển Đông là khoảng 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu từ Trung Đông và Đông Nam Á, khoảng 45% hàng xuất của Nhật, và 60% hàng xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Theo những nghiên cứu do Sở Môi trường và các nguồn lợi tự nhiên Philippine, vùng biển này chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển thế giới, vì vậy nó là vùng rất quan trọng đối với hệ sinh thái.
Biển Việt Nam có hơn 2.000 loài cá, trong đó có gần 130 loài cá giá trị kinh tế cao và hàng trăm loài được đưa vào sách đỏ VN và thế giới, 1.600 loài giáp xác, 2.500 loài thân mềm, cho khai thác 45.000-50.000 tấn rong biển…
Bên cạnh ý nghĩa địa lý và sinh thái, Biển Đông còn có ý nghĩa kinh tế cực kỳ quan trọng. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Nguyễn Việt Thắng phát biểu về thuỷ sản Việt Nam: Kinh tế thuỷ sản tăng trưởng liên tục bình quân 5-7%/năm, chúng tathuộc 10 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu thuỷ sản. Ước tính vào năm 2020, ngành thuỷ sản tăng trưởng gấp 2 lần hiện nay (khoảng 7 tỉ USD), trong đó 70% tỉ trọng vẫn từ vùng nước lợ và biển. Cho nên đòi hỏi đẩy mạnh đánh bắt xa bờ, duy trì đánh bắt gần bờ hợp lý, tăng cường nuôi trồng thuỷ sản trên biển theo công nghệ cao kết hợp với chuyển dịch cơ cấu sản xuất trên biển…
Từ chỗ sống nhờ vào biển, Việt Nam đã vươn mình lên làm chủ tài nguyên biển. Ngành thuỷ sản cũng phục vụ cuộc sống cho hàng triệu đồng bào ngư dân từ Bắc chí Nam.
Nhắc đến khai thác tài nguyên biển phải kể đến khai thác dầu và khí đốt thuộc thềm lục địa lãnh thổ nước ta. Số liệu Bộ ngoại giao Việt Nam cho biết: Tổng tiềm năng dầu khí tại các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Cửu Long, Ma lay - Thổ Chu, Vùng Tư Chính - Vũng Mây… đã được xác định tiềm năng và trữ lượng đến thời điểm này là từ 0,9 đến 1,2 tỷ m3 dầu và từ 2.100 đến 2.800 tỷ m3 khí. Trữ lượng đã được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỷ m3 khí. Trữ lượng khí đã được thẩm lượng, đang được khai thác và sẵn sàng để phát triển trong thời gian tới vào khoảng 400 tỷ m3.Hiện nay, ngành Dầu khí nước ta đang khai thác dầu khí chủ yếu tại 6 khu mỏ bao gồm: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bunga Kekwa – Cái Nước và chuẩn bị chính thức đưa vào khai thác mỏ khí Lan Tây …
Dầu mỏ hiện nay là nhân tố chính quyết định nền kinh tế và hoà bình của toàn thế giới. Hơn bao giờ hết, dầu mỏ đang trở thành vũ khí của quốc gia, và cũng là miếng mồi béo bở ngoại bang nhòm ngó. Do đó việc bảo vệ chủ quyền biển đảo có ý nghĩa sống còn. Bảo vệ vững chắc chủ quyền trên biển sẽ giúp Việt Nam phát triển kinh tế hiệu quả. Xin trích lời của Thiếu tướng, chuẩn Đô đốc Hải quân Trần Thanh Huyền: “Biển đảo của ta có vị trí hết sức quan trọng. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và thềm lục địa phía Nam có vị trí tiền tiêu, tạo thành vòng cung án ngữ bảo vệ tổ quốc ở phía Đông. Trong lịch sử trong 14 cuộc chiến tranh với nước ngoài thì có đến 10 cuộc xâm lược bằng đường biển. Đất nước ổn định phát triển kinh tế thì trước hết chúng ta phải có sức mạnh về quốc phòng, cho nên chúng ta phải tăng cường sức mạnh phòng thủ của đất nước từ hướng biển. Có quốc phòng an ninh tốt, ngư dân mới ra đánh bắt hải sản. Ngược lại, kinh tế phát triển tốt thì mới phát triển được kinh tế toàn đất nước. Trong quá trình này, kinh tế và quốc phòng kết hợp chặt chẽ. Quốc phòng trên biển mạnh sẽ là chỗ dựa cho bà con ngư dân, các lực lượng ra làm ăn trên biển.
Trong 2 cuộc kháng chiến thì chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân trên đất liền đã rõ nhưng trên biển thế nào cần phải nghiên cứu. Đảng và Nhà nước đang giao cho các cơ quan ban ngành nghiên cứu, chắc chắn trong tương lại các cơ quan sẽ tham mưu cho Đảng và Nhà nước làm sao chúng ta mạnh trên biển”.
Việc bảo vệ chủ quyền Biển Đảo đã được các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước chú trọng từ lâu. Tháng 3/1961, khi ra vùng đảo Đông Bắc thăm bộ đội hải quân, Bác Hồ đã nói: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay có ngày, có trời, có biển, bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải giữ lấy nó”.
Những lời căn dặn sắt son của Người luôn là động lực để nhân dân ta, các lực lượng vũ trang ta quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia cả trên đất liền, trên không và trên biển.
Với tinh thần ấy, từ Khóa X, Ban chấp hành TW 4 đã ra nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó tinh thần cốt lõi là phải bảo vệ toàn vẹn, vững chắc chủ quyền quốc gia đối với biển đảo của Tổ quốc nhằm phát huy tiềm năng to lớn kinh tế biển để xây dựng đất nước giàu mạnh phồn vinh. Nhất quán theo định hướng chiến lược ấy và thực hiện trách nhiệm của một thành viên Liên hiệp quốc (LHQ), ngày 7/5/2009, Chính phủ Việt Nam đã trình Ủy ban ranh giới thềm lục địa của LHQ bản báo cáo quốc gia xác định rõ ranh giới thềm lục địa theo đường cơ sở của Việt Nam trên biển. Trước đó, để thống nhất trình báo cáo này lên cơ quan của LHQ, Việt Nam và Malaysia cũng đã phối hợp bàn thảo để báo cáo chung về khu vực thềm lục địa liên quan đến hai nước, trong đó phần lãnh hải của Việt Nam bao gồm cả huyện đảo Hoàng Sa thuộc TP. Đà Nẵng và Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa, cả hai huyện đảo này, chính quyền địa phương cũng đã bổ nhiệm Chủ tịch UBND huyện để quản lý hành chính.
Trả lời báo chí, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nói rõ: “Việc trình báo cáo nói trên với LHQ là việc làm bình thường của quốc gia thành viên LHQ nhằm thực thi nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của Công ước LHQ về luật biển năm 1982. Một lần nữa chúng tôi khẳng định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mọi hành động của nước ngoài đối với hai quần đảo này cũng như trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam mà không được sự chấp thuận của Việt Nam đều là vi phạm chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các khu vực này”. Nhân dân cả nước ta bày tỏ thái độ hoàn toàn ủng hộ lập trường pháp lý của Bộ Ngoại giao ta về chủ quyền của mình đối với biển đảo của Tổ quốc như lời căn dặn của Bác Hồ.
Ở Việt Nam còn rất nhiều tư liệu chứng minh chủ quyền của nước ta trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Trong “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” hay “Toản tập An Nam lộ”, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở Bãi Cát Vàng. Còn tài liệu trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn viết năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải. (xin được nói rõ thêm, các bản đồ địa lý Việt Nam cổ ghi nhận Bãi Cát Vàng được dùng để chỉ chung cả Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ Việt Nam từ đầu thế kỷ 17. Trong cuốn "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ thuộc về tỉnh Quảng Ngãi. Ông miêu tả đó là nơi người ta có thể khai thác các sản phẩm biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu. Tài liệu ghi chép Việt Nam vào thế kỷ 17 nhắc đến các hoạt động kinh tế được tài trợ của chính phủ dưới triều nhà Lê từ 200 năm trước đó. Nhà Nguyễn đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu địa lý về các đảo từ thế kỷ 18.
Sang thời kỳ triều Nguyễn, từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, có thể kể đến như sau:
- Dư địa chí trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt địa dư chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.
- Đại Nam thực lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
- Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tài liệu rất quí giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, Bộ Lại, Bộ Binh và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hoãn kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục. Trong bộ sách Đại Nam nhất thống chí (soạn năm 1882, năm 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản...
Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.
Một sắc chỉ của triều đình Nguyễn liên quan đến việc canh giữ quần đảo Hoàng Sa được gia tộc họ Đặng ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, gìn giữ suốt 174 năm qua, nay trao lại cho Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi.
Ở Lý Sơn ngày nay, hầu như đi đến đâu cũng bắt gặp vô vàn những ngôi mộ gió. Các hải đội Hoàng Sa ở Lý Sơn nối tiếp nhau đến Hoàng Sa - Trường Sa trên những chiếc ghe bầu được đóng bằng gỗ chò mà người xưa hay gọi là tiểu điếu thuyền. Ghe chỉ rộng khoảng 3m, dài hơn 10m, chở được 10 người. Nương theo chiều gió, ghe căng ba cánh buồm cùng với sức chèo đi khoảng ba ngày ba đêm thì đến đảo Hoàng Sa. Ngoài lương thực, nước uống được mang theo tạm đủ dùng trong 6 tháng, những người lính còn bắt cá, chim làm lương thực trong suốt chiều dài hải phận. Trước khi ra đi, các thành viên không quên mang theo bên mình một thẻ bài ghi rõ danh tính, quê quán, phiên hiệu hải đội. Mỗi người còn chuẩn bị một chiếc chiếu, dây mây, nẹp tre để lo hậu sự cho chính mình nếu không thể trở về đất liền.
Nhắc đến Hải đội Hoàng Sa, người Lý Sơn luôn khắc cốt ghi tâm những người anh hùng bất chấp hiểm nguy để cắm mốc, dựng bia chủ quyền, đo đạc thủy trình, trồng cây cối, thu lượm hải vật ở quần đảo Hoàng Sa, trong đó có những người của tộc họ Phạm là Phạm Quang Ảnh và Phạm Hữu Nhật.
Theo gia phả lưu giữ tại gia tộc Phạm, vào triều Nguyễn, Phạm Quang Ảnh được phong làm Cai đội Hoàng Sa. Ông lãnh quân ra đi rồi mãi mãi không về. Con cháu đắp nấm mộ chiêu hồn tập thể cho ông cùng 10 người lính của ông. Đến nay, ngôi mộ gió này vẫn còn được thờ tự ở thôn Đông, xã An Vĩnh.
Còn ông Phạm Hữu Nhật được phong làm Chánh đội trưởng suất đội, đã dẫn đầu một nhóm thuyền chở khoảng 50 người mang theo lương thực đủ ăn 6 tháng vượt biển đến Hoàng Sa. Ở từng điểm đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, họ đều dừng lại cắm mốc, dựng bia chủ quyền ở đảo đó và đo đạc thủy trình, trồng thêm cây cối, thu lượm hải vật, rồi mới về tấu trình hoàn thành nhiệm vụ.
Không ai rõ Phạm Hữu Nhật đã đi bao nhiêu chuyến, nhưng có một điều chắc chắn rằng lần cuối cùng ông đi mãi không về. Gia đình, họ tộc đã phải an táng ông bằng nấm mộ chiêu hồn không có hài cốt. Tổ quốc cũng khắc ghi công ơn của ông bằng việc đặt tên Hữu Nhật cho một hòn đảo lớn nằm ở phía nam quần đảo Hoàng Sa. Một hòn đảo lớn trong nhóm đảo Lưỡi Liềm ở Hoàng Sa cũng được đặt tên Quang Ảnh để ghi nhớ công lao của Phạm Quang Ảnh - người đã từng đặt chân lên đảo này để khẳng định chủ quyền.
Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, đó là khẳng định sắt son không gì thay đổi được. Tất cả mọi người Việt Nam sẽ chung sức chung lòng kiên quyết bảo vệ chủ quyền Biển Đảo vì tương lai đất nước.








