Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên nước
Tình hình khai thác và sử dụng nước
Việt Nam là nước Đông Nam Á có chi phí nhiều nhất cho thủy lợi. Cả nước hiện có 75 hệ thống thủy nông, với 659 hồ, đập lớn và vừa, trên 3.500 hồ, đập nhỏ, 1.000 cống tiêu, trên 2.000 trạm bơm lớn, nhỏ, trên 10.000 máy bơm các loại, có khả năng cung cấp 60 - 70 tỷ m 3/năm. Tuy nhiên, nhiều hệ thống thủy nông đã xuống cấp nghiêm trọng, chỉ đáp ứng được 50 - 60% công suất thiết kế. Lượng nước sử dụng hàng năm cho nông nghiệp khoảng 93 tỷ m 3, công nghiệp: 17,3 tỷ m 3, dịch vụ: 2 tỷ m 3, sinh hoạt: 3,09 tỷ m 3.
Hiện nước ta có trên 240 nhà máy cấp nước đô thị với tổng công suất thiết kế là 3,42 triệu m 3/ngày. Trong đó, 92 nhà máy sử dụng nguồn nước mặt với tổng công suất 1,95 triệu m 3/ngày và 148 nhà máy sử dụng nguồn nước dưới đất với tổng công suất khoảng 1,47 triệu m 3/ngày. Nhiều địa phương sử dụng cả 2 nguồn nước mặt và nước dưới đất. Tổng công suất hiện có của các nhà máy cấp nước bảo đảm cho mỗi người dân đô thị khoảng 150 lít nước sạch mỗi ngày. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng, hệ thống cấp nước tại nhiều khu đô thị lạc hậu, thiếu đồng bộ nên hệ thống cấp nước khu đô thị chưa phát huy hết công suất, tỉ lệ thất thoát nước sạch khá cao (có nới tỉ lệ thất thoát tới 40%). Chính vì vậy trên thực tế, nhiều đô thị cung cấp nước chỉ đạt khoảng 40 - 50 lít/người/ngày.
Khu vực nông thôn nước ta có khoảng 36,7 triệu người dân được cấp nước sạch (trên tổng số 60,44 triệu người). Có 7.257 công trình cấp nước tập trung cấp nước sinh hoạt cho 6,13 triệu người và trên 2,6 triệu công trình cấp nước nhỏ lẻ khác. Có trên 50% hộ dân đang dùng nước giếng khơi, 25% dùng nước sông suối, trên 10% dùng nước mưa.
Nguyên nhân suy giảm nguồn tài nguyên nước
Một là, do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu
Nhiệt độ không khí:có xu thế ngày một tăng lên đã được khẳng định. Kịch bản có thể chấp nhận là đến năm 2070, ở các vùng ven biển có khả năng tăng thêm +1,5 0C, vùng nội địa +2,0 0C, chúng kéo theo lượng nước bốc thoát hơi tăng khoảng 7,7 - 8,4%, nhu cầu tưới tăng lên, lượng dòng chảy nước mặt sẽ giảm đi tương ứng khi lượng mưa không đổi.
Bão lụt:ElNino và LaNina (gọi tắt là ENSO) làm tăng thêm tính cực đoan của thời tiết. Hậu quả làm tăng thêm tính cực đoan của lượng dòng chảy trong năm trên các dòng sông, nhất là LaNina thường mưa lớn, nước sông dâng cao gây lũ lụt nhiều nơi. Điển hình như những trận lũ cuối năm 2010 ở các tỉnh miền Trung, lũ chồng lên lũ.
Hạn hán:ElNino gắn liền với việc gây hạn hán rất nặng nề ở nước ta. Những năm có ElNino, lượng mưa và lượng dòng chảy trong sông đặc biệt là trong mùa cạn thường bị giảm mạnh, thậm chí không có dòng chảy như sông Lòng (Bình Thuận), sông KrongBuk (Đắc Lắc)… Hạn khiến cho gia súc và hàng chục ngàn hécta cây trồng bị chết do thiếu nước.
Mực nước biển dâng:Mực nước biển dâng lên kéo theo sự xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền có năm lấn sâu tới 50km, làm giảm đáng kể TNN ngọt…
Hai là, khai thác và sử dụng TNN thiếu bền vững
Bịt cửa các phân lưu để khai thác các bãi sông trong đê sử dụng cho mục đích nông nghiệp. Điển hình như: Năm 1900, bịt cửa sông Cà Lồ là phân lưu tự nhiên của sông Hồng, sông Cà Lồ trở thành một nhánh sông Cầu, sông chứa nước mưa, nước thải ô nhiễm các chất hữu cơ, dầu mỡ. Năm 1937, bịt sông Đáy bằng đập Đáy, sông Đáy trở thành khúc sông chết (từ đập Đáy đến Ba Thá). Năm 1967, bịt cửa Đáy bằng cống Vân Cốc và Đê Cửa Hát để khai thác bụng hồ Vân Cốc - đập Đáy.
Các sông nhỏ, kênh rạch trong nội đô các thành phố bị ô nhiễm nặng do nước thải sinh hoạt, công nghiệp như: Các sông Tô Lịch, sông Sét, Kim Ngưu… chảy trong nội thành Hà Nội bị ô nhiễm rất nghiêm trọng trực tiếp đổ vào sông Nhuệ. Các kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, kênh Tàu Hũ, kênh Tân Hòa - Lò Gốm, kênh Tham Lương, kênh Đôi - Tẻ và các kênh rạch khác chảy trong nội đô TP. Hồ Chí Minh đổ trực tiếp vào sông Sài Gòn gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Các sông nói chung có thể bị phân đoạn ô nhiễm khi sông chảy qua các khu đô thị, khu công nghiệp, làng nghề hay hoạt động nông nghiệp. Điển hình như đoạn sông Cầu chảy qua khu công nghiệp gang thép và TP. Thái Nguyên.
Xây dựng đập dâng sử dụng hết lượng nước cơ bản tạo ra khúc sông “khô” dưới đập, đó là một số đập dâng thủy lợi như đập Thạch Nham trên sông Trà Khúc, đập Lại Giang trên sông Đại Giang,… 30 năm trước đây về mùa khô vẫn có nước tràn qua đập. Vài chục năm gần đây do tăng diện tích tưới, tăng lượng nước cấp cho sinh hoạt, công nghiệp, mặt khác do rừng đầu nguồn bị tàn phá nặng nề nên mùa khô ở hạ lưu hết nước, có năm kéo dài vài ba tháng, nếu không có mưa, các vùng hạ lưu các đập dâng này nhiều cư dân sinh sống ven sông và trên sông, chịu tác động tiêu cực rất đáng kể. Các đập dâng thủy điện thường tạo ra khúc sông “chết” đoạn giữa hạ lưu đập và nhà máy và do điều tiết ngày đêm tạo ra nửa ngày ở hạ lưu không có nước xả.
Trong qui hoạch, thiết kế các hồ chứa nước, một thời gian dài không quan tâm đến hoặc quan tâm không đầy đủ đến dòng chảy môi trường phía hạ lưu đập.
Khai thác nước quá mức, thiếu qui hoạch, kế hoạch đồng bộ, như: Khai thác nước ngầm quá mức gây ô nhiễm trầm trọng ở Đắc Lắc, Ninh Thuận và Bình Thuận, đòi hỏi phải có biện pháp bổ cập. Cũng như theo qui hoạch về nguồn nước, đến năm 2010 đáp ứng yêu cầu cấp nước tưới cho 5 tỉnh Tây Nguyên là 80.000 ha cà phê. Đến năm 2000 riêng tỉnh Đắc Lắc đã trồng được 260.000 ha cà phê. Hậu quả là không đủ nước tưới, nên hàng chục ngàn ha cà phê bị chết.
Quản lý TNN bị phân tán, tính ràng buộc không chặt chẽ, thiếu thống nhất nên đã xảy ra tình trạng: Thiếu nước “nhân tạo” do không có qui trình vận hành hồ về mùa cạn (nước sông Hồng không đáp ứng yêu cầu mực nước cần thiết trong các tháng II, III hàng năm).
Giải pháp bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên nước
Hạn chế và giảm thiểu suy thoái TNN:Cải thiện, nâng cấp và mở rộng các hệ thống thoát lũ, tiêu úng. Thực hiện nghiêm chỉnh các Luật TNN, Luật Bảo vệ môi trường, Đê điều… bảo đảm thoát lũ, bảo vệ bờ sông, chỉnh trị lòng sông, cửa sông thông thoát lũ. Nâng cấp đê biển, để cửa sông, củng cố bồi trúc đê sông đảm bảo an toàn đê với mực nước thiết kế đã qui định. Khai thác hợp lý đất đai chưa sử dụng. Thực hiện cơ chế sản xuất sạch. Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ, đặc biệt là rừng ngập mặn ven biển.
Hạn chế và giảm thiểu suy thoái TNN do khai thác, sử dụng TNN
Về nông nghiệp:Giảm nhu cầu nước, tưới tiết kiệm nước, giảm tổn thất nước bao gồm: Cứng hóa kênh mương; nâng cấp công trình đầu mối; nâng cao hiệu quả quản lý; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có nhu cầu sử dụng nước thấp, nhưng có giá trị kinh tế cao; phòng chống ô nhiễm nguồn nước.
Về công nghiệp:Nâng cao hiệu quả tái sử dụng nước; xây dựng hệ thống xử lý nước thải; phòng chống ô nhiễm nguồn nước.
Về khai thác sử dụng nguồn nước đi đôi với bảo vệ nguồn nước:Bảo đảm duy trì dòng chảy môi trường cho các dòng sông khỏe mạnh, bảo vệ và phát triển hệ sinh thái thủy sinh; đảm bảo dòng chảy môi trường theo qui hoạch, thiết kế vận hành các hồ chứa nước thủy lợi, thủy điện và đập dâng; có kế hoạch biện pháp bổ cập nước ngầm những vùng khai thác quá mức, phòng chống hoang mạc hóa.
Về đầu tư nghiên cứu kiểm kê đánh giá và qui hoạch dự báo dài hạn TNN:Dự báo theo mùa, năm và nhiều năm về nguồn nước, thiên tai, lũ lụt, hạn hán đi kèm với hiện tượng ENSO… để có kế hoạch sử dụng hợp lý và an toàn nguồn nước.
Về quản lý tổng hợp TNN:Tổ chức các lưu vực sông có cơ chế quản lý thích hợp, hiệu quả theo Nghị định 120/2008/NĐ-CP về quản lý lưu vực sông; củng cố và xây dựng mối quan hệ hợp tác với các nước láng giềng về quản lý TNN đối với các sông xuyên biên giới.
Hạn chế và giảm thiểu suy thoái TNN do Luật pháp, quản lý và tổ chức:Sớm ban hành đầy đủ, đồng bộ những văn bản dưới Luật hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường và các Luật có liên quan đến TNN; tập trung thống nhất cơ quan quản lý TNN thông suốt từ trung ương đến địa phương và sớm thành lập các tổ chức quản lý lưu vực sông thích hợp với nhiệm vụ chức năng rõ ràng, hoạt động có hiệu quả; có cơ chế, chính sách để người dân, các tổ chức cộng đồng tham gia thực sự bảo vệ TNN, bảo vệ môi trường nước, tạo điều kiện cho người dân tham gia ngay từ khi lập quy hoạch xây dựng đến khai thác, sử dụng và bảo vệ.
Tiếp cận và phát triển khai hạch toán tài nguyên môi trường vào công tác bảo tồn và phát triển TNN bền vững
Hiện nay, ở nước ta, phương pháp này vẫn chưa được áp dụng do chưa có luật pháp quy định thi hành. TNN đang được con người sử dụng cho nhiều mục đích như thủy điện, thủy lợi, nước cấp cho sinh hoạt và công nghiệp, du lịch, nuôi trồng thủy sản…, nhưng không một ai phải trả bất kỳ chi phí nào cho quyền khai thác, sử dụng (trừ chi phí giao dịch và chi phí hành chính cho việc xin giấy phép sử dụng trong một vài trường hợp). Kể cả khi có những thiệt hại xảy ra do việc suy thoái TNN, như thiếu nước vào mùa khô, ô nhiễm nguồn nước trên diện rộng… vẫn không hề có chi phí nào được tính cho việc sử dụng nước. Đa số các chức năng dịch vụ của môi trường nước như khả năng duy trì hệ sinh thái tự nhiên, khả năng hấp thụ và hóa giải các chất ô nhiễm, điều hòa khí hậu, tạo cảnh quan… đều không có giá trị trên thị trường. Có thể nói, nước là một trong những loại tài nguyên tự do tiếp cận, khiến cho nó bị khai thác và sử dụng quá mức, trong khi đầu ra luôn luôn có chứa yếu tố ô nhiễm môi trường. TNN của nước ta đang bị suy thoái do biến đổi khí hậu và khai thác tràn lan, thiếu kế hoạch.








