Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Chủ nhật, 26/02/2012 01:36 (GMT+7)

Báo cáo chung Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ 2

- Cung cấp dữ liệu để xây dựng các chỉ số về phát triển cho vị thành niên và thanh niên trong tương lai, đánh giá mức độ giải quyết các vấn đề đối với vị thành niên và thanh niên; đồng thời giúp các ngành xây dựng hệ thống giám sát quốc gia về vị thành niên và thanh niên trong lĩnh vực có liên quan;

- Cung cấp những thông tin chi tiết nhằm mục đích so sánh và đánh giá sự khác biệt giữa các nhóm đối tượng nam, nữ; thành thị, nông thôn; nhóm thanh niên đã lập gia đình và chưa lập gia đình; giữa các nhóm thanh niên có trình độ học vấn khác nhau… Từ đó, giúp các nhà quản lý xây dựng chính sách quốc gia về sức khỏe cũng như các vấn đề khác của vị thành niên và thanh niên;

- Cung cấp số liệu phục vụ các nhà nghiên cứu, lập kế hoạch và hoạch định chính sách phục vụ mục tiêu cải thiện chất lượng, hiệu quả của các dịch vụ và các chương trình phục vụ đối tượng vị thành niên và thanh niên Việt Nam .

SAVY 2 được tiến hành với 10.044 vị thành niên và thanh niên trong độ tuổi 14-25 sống ở khắp 63 tỉnh/thành trên toàn quốc. So với SAVY 1, mẫu nghiên cứu đã được mở rộng cả về số lượng và không gian (SAVY 1 được tiến hành với 7.584 thanh thiếu niên trong độ tuổi 14-25 ở 42 tỉnh, thành phố). Vì SAVY 1 được xem là khá thành công, SAVY 2 đã kế thừa phần lớn thiết kế và các bước của quá trình thực hiện của SAVY 1. Với sự trợ giúp của nhiều chuyên gia, các nhà quản lý và lập kế hoạch cho SAVY 2 đã cân nhắc kỹ các vấn đề và yếu tố cần giữ lại hoặc cần sửa đổi.

SAVY 2 cung cấp những thông tin toàn diện, đầy đủ, chính xác về lối sống, lao động, học tập, việc làm và sức khỏe của thế hệ thanh thiếu niên ngày nay. Đồng thời, SAVY 2 giúp cho các nhà hoạch định chính sách có được những bằng chứng khoa học để xây dựng các chủ trương, chính sách phù hợp với thanh thiếu niên trong bối cảnh đất nước đang phát triển và hội nhập quốc tế. SAVY 2 cũng là nguồn dữ liệu hữu ích, có giá trị để giúp cho các nhà nghiên cứu, các nhà xây dựng và quản lý chương trình khai thác và sử dụng trong việc xây dựng các chiến lược, chương trình và các can thiệp phù hợp với thanh niên, nhất là trong giai đoạn đất nước đang chuẩn bị các chiến lược và chương trình phát triển kinh tế xã hội cho 10 năm tới.

Báo cáo chung về kết quả SAVY 2 do PGS.TS. Vũ Mạnh Lợi (Viện Xã hội học) và PGS.TS. Nguyễn Hữu Minh (Viện Gia đình và Giới) thực hiện. Báo cáo dài 194 trang, được chia thành 2 phần. Phần 1 là những giới thiệu về phương pháp, mục đích nghiên cứu và cơ cấu tổ chức cuộc điều tra. Phần 2 gồm 11 chương, trong đó tập trung vào các chủ đề liên quan đến cuộc sống của vị thành niên và thanh niên Việt Nam như: gia đình và các yếu tố nhân khẩu học, giáo dục, việc làm, sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục, HIV/AIDS, sử dụng chất gây nghiện, tai nạn và thương tích, sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, và thông tin đại chúng và truyền thông.

Sau đây, xin giới thiệu tóm tắt một số kết quả chính trong Báo có SAVY 2:

Gia đình và các yếu tố nhân khẩu học

Nghiên cứu chỉ ra rằng, về cơ bản, vị thành niên và thanh niên có mối quan hệ rất gắn bó với các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là cha mẹ. Điều này cho thấy tầm quan trọng của gia đình là không hề thay đổi đối với vị thành niên và thanh niên giữa hai lần điều tra. Tuy thế, vị thành niên và thanh niên có xu hướng ít tâm sự về các khó khăn của mình với các thành viên trong gia đình hơn. Vị thành niên và thanh niên, nhất là nam, cũng ít khi tâm sự với cha mẹ hay anh chị em về các vấn đề liên quan đến tình yêu, tình dục, hôn nhân và kế hoạch hóa gia đình.

So với những người cùng trang lứa thời SAVY 1, vị thành niên và thanh niên Việt Nam thuộc SAVY 2 có điều kiện sống tốt hơn, thể hiện ở tỷ lệ các hộ gia đình có sở hữu các tài sản quan trọng, đặc biệt là những tài sản giúp cho giới trẻ tiếp cận thông tin như TV, đầu VCD/DVD, máy tính, internet, điện thoại cố định và điện thoại di động, và những tài sản giú việc đi lại dễ dàng hơn như xe máy, ô tô, hay những tài sản giúp cải thiện điều kiện sống khác như quạt điện, tủ lạnh.

Giáo dục

Kết quả phân tích tại Chương 2 cho thấy, vị thành niên và thanh niên có sự gắn kết với nhà trường tốt, có nhận định tích cực về môi trường học tập và thầy cô giáo. Chỉ có 9% người được hỏi có mức độ gắn kết yếu với nhà trường so với 91% có mức độ gắn kết tốt. So với SAVY 1, mức độ thôi học trong vị thành niên và thanh niên ở SAVY 2 đã thấp hơn rất nhiều, đặc biệt ở độ tuổi dưới 15. SAVY 2 có tỷ lệ học thêm cao hơn đáng kể so với SAVY 1, học sinh ở đô thị và người Kinh/Hoa có tỷ lệ học thêm tương ứng cao hơn học sinh ở nông thôn và người dân tộc thiểu số.

Việc làm

Trong toàn mẫu nghiên cứu của SAVY 2 có 53% người đã từng đi làm kiếm tiền, và tỷ lệ này tăng dần theo độ tuổi ở cả nông thôn và đô thị, người Kinh/Hoa và người dân tộc thiểu số. So với SAVY 1, tuổi trung bình đi làm lần đầu của vị thành niên và thanh niên đã tăng thêm 1 tuổi (từ 16,5 tuổi ở SAVY 1 lên 17,4 tuổi ở SAVY 2). Người dân tộc thiểu số có tuổi trung bình đi làm lần đầu thấp hơn người Kinh/Hoa gần 1,5 năm. Việt phải đi làm khi tuổi còn trẻ có ảnh hưởng không tốt tới học tập. So với SAVY 1, tỷ lệ thanh thiếu niên đang đi học nhưng vẫn phải đi làm kiếm tiền ở SAVY 2 tăng lên đáng kể. Đa số vị thành niên và thanh niên cho rằng tìm việc làm hiện nay là khó hoặc rất khó. Tỷ lệ này giảm dần theo mức tăng của trình độ học vấn, điều này cho thấy thị trường ngày càng đòi hỏi lao động có trình độ cao hơn. Điều đáng báo động là tỷ lệ người đã đi làm và làm lao động giản đơn gia tăng tỷ lệ nghịch với trình độ học vấn. Điều này đặt ra những thách thức to lớn đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể đáp ứng những đòi hỏi của thời buổi hội nhập kinh tế toàn cầu.

Cũng như ở SAVY 1, thanh thiếu niên ở SAVY 2 tỏ ra khá năng động. Có 38% thanh thiếu niên trong mẫu SAVY 2 đã từng xa gia đình liên tục trên 1 tháng (SAVY 1 là 30%). Tuổi trung bình lần đầu xa gia đình của những người đã từng xa gia đình trên 1 tháng là 17,3 tuổi (SAVY 1 là 16,7). Đa số những người đã từng xa gia đình trên 1 tháng là do “đi kiếm sống” và “đi học”. Với mục đích kiếm sống, nam di cư nhiều hơn nữ, thanh niên nông thôn di cư nhiều hơn thanh niên đô thị. Điều này cho thấy thanh niên di cư là bộ phận quan trọng của quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên cả nước.

Sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục

Liên quan đến vấn đề sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục, các phân tích số liệu cho thấy tuổi bắt đầu có kinh ở nữ và mộng tinh/xuất tinh ở nam ở SAVY 2 có xu hướng giảm, nam nữ thanh niên ở đô thị bắt đầu có sự kiện này sớm hơn nam nữ ở nông thôn. Cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới, tuổi quan hệ tình dục lần đầu trung bình của thanh niên có xu hướng giảm từ 19,6 tuổi (20 cho năm và 19,4% cho nữ) ở SAVY 1 xuống còn 18,1 tuổi (18,2 cho nam và 18 cho nữ) ở SAVY 2.

Kiến thức về mang thai ở thanh thiếu niên ở cả hai cuộc điều tra còn rất hạn chế và điều này dường như không có tiến bộ đáng kể nào giữa hai kỳ điều tra. Thanh thiếu niên chủ yếu biết được thông tin về mang thai hay kế hoạch hóa gia đình qua các nguồn thông tin đại chúng. Mức độ biết các thông tin ngày từ nhà trường, gia đình, nhân viên y tế/dân số hay các cơ sở tư vấn sức khỏe sinh sản còn rất khiêm tốn.

Sử dụng các chất gây nghiện

Theo kết quả nghiên cứu, thanh thiếu niên ở SAVY 2 tỏ ra sử dụng rượu bia nhiều hơn thanh thiếu niên ở SAVY 1. 60,5% nam và 22% nữ ở SAVY 2 cho biết họ đã từng say rượu/bia. Tỷ lệ say rượu/bia không khác nhau đáng kể ở nông thôn và đô thị, song tỷ lệ này tăng theo độ tuổi. Không có sự liên hệ rõ rệt giữa hiện tượng bị say rượu, bia trong tháng qua và các hành vi đánh đập xảy ra trong gia đình trong 12 tháng qua, mặc dù có xu hướng mắng chửi nhau nhiều hơn trong số những người có say trong tháng qua. Cũng không tim thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa việc bị say trong tháng qua với các hành vi bị chấn thương hoặc bị tai nạn trong 12 tháng qua. Tuy nhiên, có một tỷ lệ đáng kể những thanh niên bị say từ 2 lần trở lên trong tháng qua đã từng láy xe máy sau khi uống rượu (gần 80%) trong khi tỷ lệ những thanh niên chưa từng bị say trong tháng qua từng lái xe máy sau khi uống rượu chỉ có 46%. Không có bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ giữa tình trạng nghiện rượu của thành viên gia đình với việc thanh niên từng uống bia, rượu.

Không có sự khác nhau nhiều về tỷ lệ thanh thiếu niên có hút thuốc giữa hai kỳ điều tra. Mối liên hệ giữa việc hút thuốc của vị thành niên với môi trường gia đình cũng không rõ ràng.

Tai nạn, thương tích có chủ định và không có chủ định

So sánh với kết quả SAVY 1, tỷ lệ thanh thiếu niên bị tai nạn, thương tích cần phải điều trị trong vòng 12 tháng qua trong cuộc khảo sát SAVY 2 có giảm đi chút ít (6,6% so với 7,4% ở điều tra SAVY 1). Đại bộ phận các vụ tai nạn, thương tích lần gần nhất là xảy ra trên đường/phố (73%). Những địa điểm khác có tỷ lệ cao bị tai nạn là tại nhà (9,5%) và nơi làm việc (9,0%). Cũng đáng lưu ý là đối với các trường hợp bị tai nạn, thương tích tại nhà thì tỷ lệ đối với nữ thanh niên cao hơn so với nam thanh niên (10,8% so với 8,6%) nhưng tai nạn tại nơi làm việc thì ngược lại, tỷ lệ nam thanh niên bị cao hơn rõ rệt so với nữ thanh niên (11,9% so với 4,4%). Có khoảng ¼ số thanh niên còn có những lúc đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, trong số đó chiếm phần chủ yếu là nam thanh niên tuổi trẻ (đặc biệt là ở độ tuổi vị thành niên 14-17 tuổi). Trong số này, chỉ tính riêng trong 6 tháng trước cuộc khảo sát có khoảng 89% khẳng định đã có lúc lái xe hoặc ngồi sau xe không đội mũ bảo hiểm (tỷ lệ nam cao hơn nữ).

Trong số 1678 trường hợp đã từng kết hôn có 4,1% trả lời đã từng bị chồng/vợ đánh đập. Nạn nhân bị đánh đập chủ yếu rơi vào nữ thanh niên, với tỷ lệ là 5,8% so với 1,0% nam thanh niên bị vợ đánh đập. Đáng ngạc nhiên là nếu so với kết quả của SAVY 1 thì tỷ lệ nữ thanh niên bị chồng đánh đập hoàn toàn không giảm đi (SAVY 1 là 5,8%). Và cũng đáng ngạc nhiên là tương tự với kết quả SAVY 1, tỷ lệ người vợ đã từng bị chồng đánh đập ở khu vực thành thị cao hơn ở khu vực nông thôn (8,4% so với 5,3%), thậm chí cao hơn so với kết quả của SAVY 1 (6,8% ở khu vực thành thị). Chỉ báo này cho thấy vấn đề bạo lực gia đình vẫn còn rất cần được quan tâm hiện nay.

Sức khỏe tinh thần

SAVY 2 cho thấy thanh thiếu niên có cái nhìn lạc quan về cuộc sống trong tương lai, không có sự khác biệt đáng kể về mức độ lạc quan giữa nữ và nam, giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các nhóm thanh niên có trình độ học vấn khác nhau, cũng như giữa những người theo các tôn giáo khác nhau. Mặt khác, SAVY 2 cũng cho thấy có một tỷ lệ không nhỏ trong số họ còn có lúc cảm thấy tự ti (29,9%), có cảm giác thất vọng, chán chường về tương lai (14,3%). Cuộc sống gia đình, môi trường học tập, sự hài lòng với công việc, việc có hay không sử dụng chất gây nghiện… là những yếu tố có ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của thanh thiếu niên.

Nhìn chung, giới trẻ Việt Nam luôn kỳ vọng vào tương lai, tự tin, đánh giá cao bản thân, thấy mình có ích đối với gia đình, có vai trò trong xã hội và điều này hầu như không thay đổi ở cả hai cuộc điều tra. Nếu được tạo điều kiện phát triển thuận lợi, tinh thần lạc quan này sẽ là động lực thúc đẩy thanh niên lao động và học tập hiệu quả hơn, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Báo cáo đưa ra kết luận rằng thanh thiếu niên ở SAVY 2 so với SAVY 1 sống trong điều kiện tốt hơn rất nhiều. Có nhiều biểu hiện tích cực trong các lĩnh vực của cuộc sống như giáo dục, việc làm, tiếp cận thông tin về sức khỏe sinh sản. Gia đình vẫn là chỗ dựa chắc chắn cho thanh thiếu niên. Cũng như ở SAVY 1, thanh thiếu niên Việt Nam lạc quan về tương lai. Sự phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng của đất nước đã mang đến cho thanh niên nhiều cơ hội, giúp họ có nhiều niềm tin vào tương lai. Tuy nhiên, cũng có nhiều thách thức to lớn đối với họ như: lao động ngày càng đòi hỏi tay nghề, trình độ cao; dễ dàng tiếp xúc với những hành vi nguy cơ cao cho sức khỏe; một bộ phận nhỏ thanh thiếu niên vẫn thiếu hiểu biết về một số kỹ năng sống, có hành vi có nguy cơ cao đối với sức khỏe thể chất và tinh thần của họ cũng như đối với phúc lợi cuộc sống nói chung của họ và gia đình.

Báo cáo là nguồn thông tin bổ ích về đời sống xã hội, thái độ và hoài bão của thanh thiếu niên Việt Nam hôm nay. Các kết quả thể hiện trong báo cáo là những dữ liệu nền tảng cho các chương trình và chính sách quốc gia về phát triển thanh thiếu niên trong tương lai.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.