Bàn về nhân tài Đất Việt
1. Khái niệm về nhân tài
Ai cũng biết nhân tài là người tài giỏi. Song, định tiêu chuẩn cho nhân tài lại đang còn có những cách hiểu khác nhau. Có người hiểu nhân tài trước hết phải là người có bằng cấp cao. Lại có người hiểu nhân tài là những người thực sự có tài năng và phẩm chất. Đúng vậy, nhân tài phải là những người có tài năng xuất sắc, có những cống hiến về lý luận kinh tế, khoa học, kỹ thuật, tài lãnh đạo, quản lý nổi trội hơn những người bình thường. Đó là những con người học rộng, học sâu, tài cao, giàu sáng tạo, tư duy sắc sảo, độc đáo, có khả năng dự báo, làm việc độc lập, tự chủ, đọc nhiều sách, nhưng lại không phụ thuộc vào sách. Đó là các nhà khoa học, nhà lý luận, nhà chính trị, nhà quân sự, nhà văn hoá, nhà giáo dục, nhà ngoại giao, thầy thuốc, nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà kinh doanh,... tầm cỡ. TS Howard Gardner, GS Trường Đại học Havard, đã đưa ra những chỉ số thông thái để định ra tiêu chuẩn của nhân tài trên các lĩnh vực: thông minh ngôn ngữ, thể hiện sự nhạy cảm với ý nghĩa và thứ tự của các từ; thông minh lôgic-toán, thể hiện khả năng đặc biệt về toán học và các hệ thống lôgic phức tạp khác; thông minh âm nhạc, thể hiện khả năng đặc biệt về sáng tác âm nhạc; thông minh hình tượng, thể hiện khả năng suy nghĩ siêu việt về hình tượng, nhận thức chính xác về thế giới vật chất nhìn được và sáng tạo lại (hoặc thay đổi) trong tư duy (Trí thông minh hình tượng phát triển mạnh ở các nghệ sĩ, kiến trúc sư, nhà thiết kế, nhà điêu khắc); thông minh về sự vận động thẩm mỹ của cơ thể, thể hiện ở khả năng có thể sử dụng cơ thể mình vào các kỹ năng, diễn cảm như các nghệ sĩ kịch câm, nghệ sĩ múa, các diễn viên nằm trong số những người có thể biểu lộ trí tuệ biểu cảm cơ thể tốt nhất; thông minh và hiểu biết giữa người với người, thể hiện ở khả năng cảm nhận và thấu hiểu được tâm trạng, ước vọng, động cơ, sở trường, sở đoản của những người khác để đối xử và bố trí công việc cho phù hợp, thông minh về nội tâm con người, thể hiện ở sự hiểu biết sâu sắc tâm trạng: tình cảm, ý chí, lý trí con người; thông minh về tự nhiên của con người thể hiện năng khiếu bẩm sinh, “trời phú”.
Bản chất nguồn gốc của nhân tài có thể xuất hiện do di truyền, nếp nhà, năng khiếu bẩm sinh. Song, cũng có thể do sự khổ luyện, cần mẫn mà có. Con người ta, “phần nhiều do giáo dục mà nên”. Có điều là, dù do di truyền hay do tự rèn luyện cũng phải qua môi trường giáo dục của nhà trường, xã hội, gia đình, sự giúp đỡ của bạn bè và những người thân. Môi trường làm nảy sinh nhân tài gồm các yếu tố: tự thân, nhà trường, xã hội, gia đình, hoàn cảnh. Nó gắn liền với văn hoá và giáo dục.
2. Những trang sử đào tạo nhân tài
Giở lại những trang sử của nước nhà, chúng ta thấy ông cha ta đã có những chủ trương lớn trong việc đào tạo nhân tài. Đời Trần, đời Nguyễn Quang Trung và chính thể Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã ghi những dấu mốc về sự quan tâm đào tạo nhân tài.
Tại đời Trần, sau cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, Nhà Vua quyết định phục hồi kinh tế, phát triển văn hoá. Triều đình quy định chế độ học hành, thi cử. Nhà nước lập Quốc học viên để các nho sĩ vào học. Ngoài các trường học của Nhà nước, nơi xóm thôn còn có các lớp học do các nho sĩ tổ chức. Học vị được quy định chính thức. Chính sách trọng dụng nhân tài được mở ra trong cả nước. Năm 1442, Triều đình đã cho khắc tấm bia tại Văn Miếu, Hà Nội, dòng chữ: “Hiền tài là nguyên khí Quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp kém. Vì thế, các bậc thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sĩ, bồi dưỡng nhân tài, vun trồng nguyên khí là công việc cần kíp. Bởi vì, kẻ sĩ có quan hệ trọng đại với Quốc gia như thế, cho nên được quý chuộng không biết nhờng nào”. Sự quan tâm này của Triều đình đã làm nảy nở những nhân tài của đất Việt.
Triều Nguyễn Quang Trung cũng rất coi trọng nhân tài. Việc Vua Quang Trung dùng Ngô Thì Nhậm, Ngô Văn Sở, ... là một bằng chứng để nói rằng sự sáng suốt và mạnh dạn của Nhà Vua. Nhìn lại lịch sử thấy rằng, từ năm 1789, khi cuộc kháng chiến kết thúc, Vua Quang Trung đã ban bố: “Chiếu khuyến nông” và đề ra chủ trương phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp, mở rộng việc buôn bán, sản xuất của thợ thủ công và thương nhân, làm cho các hoạt động kinh tế của đất nước sôi động hẳn lên. Quan hệ buôn bán với nước ngoài được mở mang. Ruộng đất bỏ hoang được cày cấy. Nền nông nghiệp được phục hồi và phát triển. Nông dân phá sản được gọi trở lại nơi ruộng đồng, nhận đất công của làng, xã để cày cấy. Cái tài của nhà trị nước Quang Trung là vừa chiến thắng quân Thanh xong lại bắt tay ngay vào quan hệ thương mại với nhà Thanh. Vua Quang Trung nêu một đề nghị có tầm chiến lược với nhà Thanh: Mở cửa ải, thông chợ búa, khiến cho hàng hoá lưu thông giữa hai nước. Chủ trương này của Vua Quang Trung đã làm cho quang cảnh buôn bán của nước Việt ta trở nên sầm uất: Trên bến, dưới thuyền tấp nập. Ngoài các thuyền buôn của nhà Thanh, còn có các thuyền buôn của các nước tư bản phương Tây. Họ ra, vào dễ dàng tại các thương cảng.
Dưới chính thể Quang Trung, công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế được đẩy mạnh. Xã hội chấn hưng hẳn lên.
Cùng với những cải cách mạnh mẽ về kinh tế, Vua Quang Trung còn ra sức xây dựng và phát triển văn hoá dân tộc. Sự nghiệp giáo dục được phục hồi và phát triển. Việc học hành và thi cử được chấn chỉnh và mở rộng từng bước. Trường học mở mang nhằm đào tạo một lớp quan lại có đức, có tài cho đất nước. Nhà Vua ban bố “Chiếu lập học”. Chiếu ban rằng: Triều đình khuyến khích các xã mở trường học. “Những sinh đồ trúng tuyển trong các kỳ thi cũ đều phải thi lại. Những kẻ dùng tiền mua bằng cấp - loại sinh đồ ba quan - bị thải hồi”. Có lần, dân làng Văn Chương (Hà Nội) gửi thư lên Vua Quang Trung, xin dựng lại bia Văn Miếu. Nhà Vua đọc thư rất cảm động và phê vào bức thư:
“Nay mai xây lại nước nhà
Bia nghè lại dựng trên toà muôn gian”.
Vua Quang Trung rất coi trọng tiếng nói dân tộc và đưa chữ Nôm thành chữ viết chính thức của Nhà nước. Viện Sùng Chính được thành lập theo sáng kiến của Nhà Vua với chức năng nghiên cứu chữ Nôm và dịch chữ Hán ra chữ Nôm.
Vua Quang Trung rất tự biết mình. Chính vì tự biết mình nên ông đã biết người. Vua thấy về mặt học hành, thi cử, mình không thể bằng nho sĩ. Song, lại dám dùng nho sĩ, nên xét cho cùng, nho sĩ không thể bằng Nhà Vua. Sách xưa có câu: “Người biết dùng người tài thường giỏi hơn người tài”.
Sau khi Vua Quang Trung mất, bẵng đi mấy thế kỷ, nhân tài đất Việt bị chìm trong lãng quên. Nó rơi lả tả như lá mùa thu. Cho đến khi chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay đến việc đào tạo nhân tài cho đất nước. Người nhận ra rằng, sau 80 năm bị Thực dân Pháp giày vò, “Nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của nhân dân là rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta phải đem lòng hăng hái đó vào con đường kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi. Kiến thiết cần có nhân tài, nhân tài của nước ta dù chưa có nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều”. Người kêu gọi: “Đồng bào ta ai có tài năng và sáng kiến vào những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”. Những tư tưởng lớn trên đây về đào tạo, sử dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Người nêu rõ trong bài “Nhân tài và kiến quốc”. (Báo Cứu quốc số 91, ngày 14-11-1945). Chính sách thu hút nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các tầng lớp trí thức Việt Nam hưởng ứng sôi nổi. Với trái tim nhân hậu và tấm lòng chân thành chiêu hiền đãi sĩ, Người đã quy tụ được anh tài bốn phương chiến đấu dưới lá cờ đại nghĩa của dân tộc. Những người tài giỏi như Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Tố, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Tạ Quang Bửu, ... đã tình nguyện đi theo lời kêu gọi của Người, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Lúc bấy giờ đất nước còn nghèo, Bác Hồ chẳng có gì “đãi sĩ”, nhưng vì Bác Hồ có tấm lòng và cái tâm rất trong sáng, nên Bác đã chiêu được nhiều người hiền tài. Người không bao giờ định kiến với người tài và hết lòng nâng đỡ người tài, làm cho người tài vô cùng cảm động. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã học được đức tính này của Bác Hồ, nên rất mến mộ người tài. Các “nho sĩ” rất muốn xin được gặp Anh Tô và muốn được tâm tình, tâm sự với Anh Tô. Từ ngày Anh Tô đi xa đã để lại một khoảng trống vắng đối với trí thức.
Trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lăng, cứu nước, mặc dù cả dân tộc đều phải cầm súng, cầm gươm, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với tầm nhìn chiến lược, đã dành một phần nguồn nhân lực và kinh phí để gửi ra nước ngoài đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, phục vụ trực tiếp cho kháng chiến và dự trữ cho công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Hàng chục vạn con em công nhân, nông dân, trí thức được cử ra nước ngoài học tập và nghiên cứu. Lực lượng này đã trở về nước. Họ đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều người đã trở thành nhà khoa học, nhà quản lý có tài năng và phẩm chất.
Hiện tại Việt Nam đã có khoảng 110 trường đại học, 300 viện nghiên cứu khoa học. Gần đây, một số trường đại học đã mở các lớp đào tạo tài năng, đào tạo chất lượng cao.
Tuy nhiên, trong việc đào tạo, sử dụng nhân tài ở nước ta vẫn còn nhiều chuyện phải bàn. Chủ trương, đường lối về đào tạo, sử dụng nhân tài thì có, nhưng khi vận dụng lại dường như “vó câu khấp khểnh, bánh xe gập gềnh”. Do thiếu một cơ chế phù hợp trong việc đào tạo, sử dụng nhân tài, nên đã nảy sinh tính tự phát của nhân tài. Vấn đề này có thể bắt nguồn từ quan điểm nhận thức của lãnh đạo Ngành Giáo dục. Giáo dục của Việt Nam đang còn thấp kém so với nhiều nước. Có tài liệu thống kê “hiện nay giáo dục đại học của ta đang tụt thấp hơn 50 bậc so với đại học của Thái Lan”. Có người nhận xét: “Cách học của chúng ta từ xưa tới nay thường là cách học trọng khoa cử, chứ không trọng hành động. Đây là một nhược điểm lớn của giáo dục Việt Nam”. Báo “An ninh thế giới cuối tháng” (Số 26, tháng 10-2003) đăng bài: “Chất lượng giáo dục thấp vì sao?”. Bài báo có dẫn lời Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Việt Nam Nguyễn Minh Hiển: “Nguyên nhân chủ yếu hạn chế chất lượng giáo dục của chúng ta hiện nay là nguyên nhân nội tại của Ngành Giáo dục”. Tình hình này sẽ hạn chế nhiều đến việc nảy nở tài năng.
Nhìn ra nước ngoài hiện nay, thấy rõ giá trị của chất xám. Nhiều nước phát triển và đang phát triển rất coi trọng vấn đề đào tạo nhân tài, xem đó là quốc sách quan trọng. Có nước đã lập những Công ty chuyên nghiên cứu và săn lùng nhân tài. Những Công ty này, họ có thể đi tới nhiều nước để tuyển nhân tài mang về làm việc cho nước mình.
Tại Mỹ, người ta quan tâm tới việc phát hiện và bồi dưỡng trẻ em có năng khiếu rất sớm. Để có thêm nhiều tiềm năng trí tuệ, Nhà nước đã triệt để khai thác những tinh hoa trí tuệ. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, Nhà nước liên tục có kinh phí trợ giúp những học sinh học giỏi. Mỗi năm dành một khoản tiền khoảng 1 tỉ USD chỉ cho việc đào tạo các ngành khoa học cơ bản, phát hiện và phát triển nhân tài.
Tại Hàn Quốc, Chính phủ xếp những nhân tài nằm trong tài nguyên tổng thể của quốc gia - tài nguyên trí tuệ. Một khi đã được xem là tài nguyên thì Nhà nước ra sức nuôi dưỡng, bảo quản và chăm sóc ân cần. Chính phủ coi việc đào tạo nhân tài là một chiến lược quan trọng. Sự chỉ đạo của Chính phủ đã làm cho những tài năng của Hàn Quốc nảy nở nhiều, đưa chỉ số những người có năng khiếu lên cao: khoảng 3%. Ngoài ra, Chính phủ Hàn Quốc đã cử người đi khắp thế giới để “thu gom” nhân tài về cho đất nước.
Nhật Bản đề ra quy định ai thi đỗ vào những trường đại học có uy tín nhất thì khi ra trường, người đó được Chính phủ tạo mọi điều kiện để lập nghiệp và tiến thân.
Có lẽ Trung Quốc hiện nay là nước đang có chính sách lôi kéo nhân tài một cách có hiệu quả nhất. Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 (khoá XV, tháng 10-2000), ghi rõ: “Nhân tài là nguồn quý giá nhất. Cạnh tranh quốc tế trong hiện tại và tương lai xét cho cùng là cạnh tranh nhân tài. Vì vậy, phải nắm thật chắc nhiệm vụ chiến lược trọng đại là bồi dưỡng, đào tạo, thu hút, sử dụng nhân tài”. Luật Giáo dục cao đẳng của Trung Quốc (ban hành ngày 2-8-1998), ghi rõ: “Nhiệm vụ của giáo dục cao đẳng là bồi dưỡng những nhân tài chuyên môn cao cấp có tinh thần sáng tạo và năng lực thực tiễn, phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hoá, đẩy mạnh xây dựng hiện đại hoá XHCN”.
Qua nghiên cứu, nhiều người đều thống nhất nhận định rằng, tất cả những nước có tốc độ phát triển cao, có hiệu quả nhất đều là những nước thật sự trọng dụng nhân tài.
3. Việt Nam ta làm gì đây với việc đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài?
Một chí sĩ thời xưa viết bài thơ:
“Nay ta hát một thiên ái quốc
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta
Trang nhiên bốn mặt sơn hà
Ông cha ta để cho ta lọ vàng”.
Lọ vàng mà ông cha ta để lại cho chúng ta chính là trí tuệ người Việt Nam trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Trí tuệ và niềm tự hào dân tộc dẫn đến sức mạnh, đến thành công.
Trong thời kỳ đổi mới, muốn có nhiều nhân tài để làm giàu cho đất nước, trước hết, phải xác định rõ việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế và văn hoá phát triển. Nghị quyết Đại hội IX và Đại hội X của Đảng ghi rõ: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Muốn thực hiện được điều đó, “cả nước trở thành một xã hội học tập”. Trong rừng hoa muôn màu muôn vẻ đó chắcchắn sẽ nở rộ những bông hoa đẹp. Đó là những “nguyên khí quốc gia”.
Làm rõ vai trò của nhân tài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chú ý bồi dưỡng trẻ em có năng khiếu, bồi dưỡng về kiến thức, vật chất và động viên tinh thần đối với những sinh viên phát tiết tài năng; sử dụng đúng vị trí những nhà khoa học có tài năng, có chính sách đãi ngộ đối với những người này. Chú ý bồi dưỡng nhân tài trên lĩnh vực kinh tế và khoa học công nghệ.
Gạt bỏ đố kỵ với nhân tài. Không phải nhân tài nào cũng “có tài là có tật” như một số người đã nói. Song, nếu có nhân tài nào đó mà “có tật” thì cũng đừng nên vì cái “tật” đó mà xoá đi cái tài của họ. Hiện vẫn đang còn hiện tượng “tật nhỏ” mà xoá đi “tài lớn”.
Nhà nước tổ chức thi tuyển những người có tài năng theo từng ngành để có kế hoạch bồi dưỡng. Hình thức thi tuyển cũng phải nghiên cứu cẩn thận, hết sức tránh lối thi cử như nhà thơ Tú Xương đã mô tả:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng hét loa”.
Có người nói rằng, khi nào “quan trường” thời nay phải như quan toà, lúc ấy thí sinh mới có cơ được nhờ. Quan toà ở đây hiểu với nghĩa nghiêm minh.
Vấn đề phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài có liên quan chặt chẽ đến ngành Giáo dục - Đào tạo. Chiến lược phát triển con người có liên quan đến Chiến lược giáo dục đào tạo. Vì vậy, đề nghị cần đổi mới tư duy trong việc xây dựng và thực hiện Chiến lược giáo dục đào tạo. Có một số người quan tâm cảm nhận rằng, làm gì thì làm, nhưng không chú trọng đến việc phát triển trí tuệ, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ thì khó tạo ra được những tài năng thực sự. Muốn có một nền giáo dục chân chính phải được sự quan tâm đúng mức của Đảng, Nhà nước, Nhân dân. Trước hết phải tuyển cử những người thật sự có tài năng, phẩm chất, có tầm nhìn chiến lược lãnh đạo và quản lý Ngành Giáo dục - Đào tạo.
Chính phủ Mỹ từ lâu đã vạch ra Chiến lược giáo dục - đào tạo, sử dụng nhân tài. Chiến lược số 1 là giúp học sinh đạt được những tiêu chuẩn học vấn cần thiết để họ có thể sẵn sàng làm việc có hiệu quả. Chiến lược số 2 nhằm xây dựng nền tảng kiến thức vững chắc cho mọi trẻ em. Chiến lược số 3 nhằm bảo đảm con đường tiếp cận giáo dục để có thể học tập suốt đời. Chiến lược số 4 nhằm làm cho Bộ Giáo dục trở thành tổ chức có hiệu quả cao bằng cách tập trung vào các kết quả, chất lượng phục vụ và làm mãn nguyện người học.
Chiếc chìa khoá để phát triển giáo dục là thực hiện cải cách giáo dục triệt để và thường xuyên. Nhà nước lo việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài. Bản thân nhân tài lo việc tự phấn đấu, tự rèn luyện, không ngừng vươn lên chiếm đỉnh cao của khoa học kỹ thuật.
Khi giáo dục vươn tới tầm văn hoá giáo dục, khi ấy giáo dục trở thành văn hoá.








