Bàn về chữ hiếu của dân tộc Việt Nam
Trước nhất, từ lâu chúng tôi vẫn kính phục nhà Phật học uyên thâm Lê Mạnh Thát. Ông là tác giả bộ từ điển Sanscrit Việt Namvà Việt Nam Sanscrit. Ông là nhà biên khảo nhiều kinh tạng đạo Phật thật công phu. Vừa giỏi chữ Hán, vừa giỏi cả Sanscrit lẫn Pali, dĩ nhiên, tác giả Lê Mạnh Thát có điều kiện hơn ai hết để diễn giải các vấn đề uẩn súc nhất của Nho học và Phật học. Như vấn đề chữ “Hiếu” chẳng hạn.
Nhưng chỉ căn cứ vào “ Mâu Tử lý hoặc luận” để khẳng định rằng “ Có sự khác biệt cơ bản giữa tư tưởng hiếu đạo của người Việt Nam và hiếu đạo của người Trung Quốc”thì chúng tôi e rằng lý luận đó không vững.
Trước nhất, như giáo sư Minh Chi đã viết ở trang 6, cột 12 bài “Quan hệ giữa Nho giáo và Phật giáo ở Việt Nam”: “Có thể nói toàn bộ lời phê phán của Nho gia trong cuốn Lý hoặc luận đều phạm sai lầm chủ quan, cái sai lầm mà logic học Phật giáo hay nhân minh học Phật giáo gọi là sở y bất thành, nghĩa là chỗ dựa để lập luận là không vững, bất thành… Tuy trong lời phê phán này, chỗ dựa của Nho gia là thực tế có thật nhưng vấn đề là thực tế nào? Nếu đó chỉ là thực tế cá biệt, số ít, không phải là tiêu biểu thì dựa vào thực tế một vài người mà phê phán chung cả một đạo cũng là một sai trái về biện luận logic”.
Và giáo sư Minh Chi xác định rõ: “ Tác giả Mâu Tử là một người Hán ở Giao Châu. Có thể nói đó là một người Hán đã Việt hoá, một Nho sĩ chính thống và uyên bác, nhưng về sau lại theo đạo Phật…”.
Mâu Tử đã phê phán Nho giáo theo quan điểm của một nhà Phật học, nên ông đã sử dụng phương pháp biện luận bằng những câu vấn nạn, với tỷ lệ 25/37 câu vấn nạn, nói về Nho giáo, để bài bác Nho giáo và bệnh vực Phật giáo: “ Phật giáo như mặt trời giữa trưa, Nho giáo như đuốc sáng, Phật giáo như Phượng hoàng, như núi Thái Sơn, như sông Trường Giang, còn Nho giáo như chim sẻ, như gò đống, như ngòi lạch v.v…”
Với lối biện luận thiên vị và chủ quan như vậy, thử hỏi các nhà nghiên cứu có chấp nhận các lý luận của Mâu Tử là trung thực và khách quan không. Đã không trung thực và không khách quan thì các học giả có nên lấy tác phẩm ấy làm cơ sở cho các lý giải của mình không?
Tác giả đã sử dụng cả hai phép Diễn dịch và Quy nạp để chứng minh là “ Dân tộc Việt Nam có quan niệm về chữ hiếu khác hẳn quan niệm về hiếu của người Trung Quốc”. Nhưng tác giả có lẽ đã cảm nhận có điều gì còn lấn cấn, nên đã cẩn thận viết thêm câu: “ Cần nhớ là chữ hiếu trong tiếng Phạn không có một từ tương đương với chữ hiếu của tiếng Hán”.
Và chính điều cần nhớ này đã khiến cho toàn bộ lôgic trong bài của tác giả vấp phải một chướng ngại: Đó là vấn đề chính danh của ngôn từ. Ý nghĩa của ngôn từ trong các học thuyết, tôn giáo và triết lý mỗi nơi mỗi khác, mỗi thời mỗi khác và mỗi người dùng mỗi khác: Chữ “Ngã” của Phật Thích Ca trong câu “ Thiên Thượng Thiên Hạ, duy ngã độc tôn” “không phải là chữ Ngã” của Nho gia. Chữ “hiếu” của Nho gia chắc hẳn không phải chữ “hiếu” của Phật giáo.
Và điểm lấn cấn trong chuỗi lý luận của tác giả là chỗ bất đồng giữa hai chữ “hạnh” của Hiếu kinhvà kinh Tu Đại Noa.
- Theo Hiếu kinh:
“Hạnh con người không gì lớn hơn Hiếu” (Nói về đạo hiếu của Nho giáo)
- Theo kinh Tu Đại Noa:
“Giúp người cứu thiếu thương nuôi quần sinh là đứng đầu của hạnh” (Nói về hạnh từ bi của Phật giáo).
Nhưng tác giả đã suy diễn vội vàng theo phép tỷ giảo (comparaison) sau đây:
1- Hiếu là hạnh lớn nhất
2- Giúp nghèo cứu thiếu, thương nuôi quần sinh là hạnh đứng đầu.
3- Hạnh đứng đầu = Hạnh lớn nhất.
4- Vậy Hạnh đứng đầu là Hiếu. Mà người Lạc Việt đã có một Hạnh đứng đầu thì “Người Lạc Việt có đạo Hiếu riêng và đạo Hiếu này là đạo Hiếu theo tiếng Phạn chứ không phải đạo Hiếu theo tiếng Hán”.
Lý luận này lôgic học gọi là luận lý lỏng lẻo, chỗ lỏng lẻo là sự khác biệt giữa cái Hạnh của đạo Nho (hiếu) và cái Hạnh của đạo Phật (Từ bi). Sơ sót này rất dễ mắc phải vì ngộ nhận. Nhưng nếu không phải vì ngộ nhận mà cố tình biện hộ thì chính là Sophisme, tức nguỵ biện.
Theo tôi nghĩ nếu người Việt thời đó có một đạo thực sự, thì đó phải là cái đạo gì khác, như đạo thờ vật tổ (Totem), đạo thờ mặt trời, đạo thờ tổ tiên, thờ anh hùng, thờ Lạc Long Quân, thờ Bố (cha), thờ Cái (mẹ), thờ thần núi, thờ thần sông… chứ chưa có Đạo Hiếu (chữ của Đạo Nho). Theo lịch sử tiến hoá thì thời Hùng Vương người Lạc Việt còn ở thời kỳ đồ đá và đồ đồng (văn minh Hoà Bình và Đông Sơn), còn theo chế độ mẫu hệ và đa thần giáo. Họ chưa có khái niệm trừu tượng về triết học và tôn giáo học cho nên trong ngôn ngữ chưa có chữ Hiếu. Đây chỉ là từ Hán Việt vay mượn của Trung Quốc, của Khổng giáo, du nhập từ thời Bắc thuộc.
Chữ “Hiếu” của Nho giáo là một từ trừu tượng được ghi theo lối tượng hình ( Thượng lão hạ tử: Trên chữ Lão dưới chữ Tử). Lão là già, Tử là con. Ý nối “bổn phận làm con phải tôn kính người già cả trên mình, người xưa đặt ra chữ hiếu đã có dụng ý nhắc nhở bổn phận của con cái phải phụng tự cha mẹ, ông bà. Về sau mới có cách giải thích thêm của Mạnh Tử: “Bất hiếu chữ tam, vô hậu chi đại”. Chữ hiếu mang thêm ý nghĩa “ làm rạng danh tổ tiên và di truyền nòi giống”.
Ta cũng nên nhớ trước khi đạo Nho du nhập, người Lạc Việt vẫn có tập tục thờ cha kính mẹ. Mười tám đời vua Hùng Vương (1) vẫn không có truyền thuyết nào nói việc giết cha để cướp ngôi hay loạn thần, tặc tử là điều trái đạo. Vậy cái gì đã giữ cho xã hội có kỷ cương, nề nếp như vậy suốt cả nghìn năm? Đó đâu phải là đạo hiếu hay đạo Nho. Xã hội Lạc Việt đã có kỷ cương riêng, có nền văn hoá riêng. Dù trong Tiền Hán Thư, Đỗ Khâm khẳng định “ Hiếu nhân hạnh chi sở tiên”. Ý này Lê Mạnh Thát dịch là “ Hiếu đứng đầu mọi hạnh của con người”.

Dù vậy, ta vẫn chưa có bằng cớ nào chắc chắn để tin rằng “Người Lạc Việt vốn đã có đạo hiếu riêng của họ” vì các lý do sau đây: 






