Bản năng khao khát cái mới lạ
Sự ưa thích, khao khát cái mới lạ là một phản xạ bản năng, bản năng này lộ rõ ở tuổi trẻ, càng trẻ bản năng càng mạnh.
Đó chính là một phản xạ nằm trong đáy sâu của tầng vô thức mà Sigmund Freud đã khám phá. Nó là một chất men kỳ diệu của cuộc sống - nguồn mạch của mọi sáng tạo và khám phá trong văn chương, nghệ thuật và khoa học. Vì vậy, hơn bất kỳ hoạt động nào khác, sự nghiệp giáo dục phải biết khai thác và tận dụng triệt để bản năng này, nếu không muốn biến mình thành một đống sách cũ nhàm chán và kém hiệu quả.
Phần I: Chất men của cuộc sống
1 - Mới lạ và nhàm chán:
Quả thật nếu cuộc sống không có cái gì mới lạ thì sẽ nhàm chán biết chừng nào! Chị em phụ nữ là những người khao khát cái mới lạ của thời trang hơn ai hết. Nếu không có chị em, công nghiệp thời trang sẽ chết. Đàn ông lại mê say một kiểu ôtô mới lạ đến nỗi bao nhiêu chiếc Toyota mới nhất ở cửa hàng cũng đều đã bán sạch, mặc dù giá đắt cứa cổ. Tuổi trẻ ngày nay lại háo hức đua nhau tìm kiếm những kiểu điện thoại di động mới lạ, vô tình thúc đẩy công nghệ điện thoại không dây phát triển không ngừng, đem lại lợi nhuận khổng lồ cho các hãng Motorola, Siemens, Nokia, Samsung, v.v… Chưa bao giờ dịch vụ quảng cáo lại phát triển rầm rộ như ngày nay. Đó là ngành công nghiệp khai thác triệt để bản năng ưa thích cái mới lạ của con người. Công nghiệp du lịch ra đời phát triển cũng dựa trên bản năng khao khát đó. Người Tây phương rất mê du lịch. Tôi quen một đôi vợ chồng người Úc sống rất đạm bạc, vì tiền kiếm ra bao nhiêu cũng đổ hết đi du lịch. Họ đã đến Việt Nam . Khi trở về họ tấm tắc khen hết lời. Họ nói phong cảnh thiên nhiên Việt Nam quá đẹp, đẹp hơn Úc rất nhiều. Họ rất thích quan sát những phong tục lễ tết làng xã cổ truyền của người Việt Nam . Đối với họ, đó là một thế giới kỳ lạ. Họ đã đến thăm cố đô Huế, thị xã Hội An, thăm Thành Cổ Hà Nội, Văn Miếu, đi bộ quanh Hồ Hoàn Kiếm, v.v… Họ nói Việt Nam có một nền văn hoá rất lâu đời đáng kính nể mà trước đây họ chưa từng biết. Đó là chưa kể họ khen con gái Việt Nam đẹp và dịu hiền hơn con gái Tây phương. Ngược lại, tôi lại rất mê du lịch Úc. Tôi đã leo lên cầu Harbour Bridge, đi bộ trên đó để ngắm trời đất lồng lộng, vào Nhà hát Sydney Opera House để nghe giao hưởng rồi chiêm ngưỡng kỳ quan kiến trúc này…
Tâm lý ưa chuộng cái mới lạ ngự trị cả trong lĩnh vực tình cảm và tinh thần. Tình yêu cũng phải có cái mới lạ, nếu không, nó có nguy cơ trở thành nạn nhân của một quy luật ngược lại: Cái gì cũ kỹ thì dễ trở thành nhàm chán và trước sau sẽ bị đào thải. Nhưng làm thế nào để một đôi vợ chồng đã “quá biết rõ nhau” mà vẫn có thể cảm thấy có cái mới lạ ở nhau? Đó chính là nghệ thuật sống. Thể thao, âm nhạc, những câu chuyện nghĩa lý bên bàn trà, ham thú văn chương, hội hoạ, du lịch v.v… là những niềm vui tinh thần vô hạn bổ sung những điều mới lạ vào trong cuộc sống vật chất vốn hữu hạn, làm cho cuộc sống vợ chồng mãi mãi hứng thú, không bao giờ nhàm chán.
Một người đàn ông đã có vợ vẫn có thể bị hấp dẫn bởi cái mới lạ của một phụ nữ khác. Đó là một phản xạ bản năng, một cảm nhận vô thức, bản năng ấy tự nó chẳng có lỗi gì cả. Vấn đề là phải kiểm soát được bản năng sao cho nó không phát triển thành những hành vi vượt quá quy phạm đạo đức xã hội mà thôi. Nếu sự khao khát đó được định hướng sao cho nó trở thành ngọn lửa làm cháy lên những vần thơ, những bản nhạc bất hủ thì có lẽ phải cám ơn cái bản năng trời cho ấy.
Nhưng có lẽ không có trường hợp nào cho thấy cái mới lạ đóng vai trò chất men sáng tạo rõ ràng như trường hợp của người đã được coi là gương mặt tiêu biểu của nhân loại trong thế kỷ 20: Albert Einstein. Đó là người mà cả cuộc đời đã cống hiến cho nỗi say đắm trước các “kỳ quan”.
2- Einstein - Người say đắm trước những “kỳ quan”:
Năm 5 tuổi, cậu bé Einstein đã bị thôi miên bởi chiếc la bàn – quà tặng của ông bố nhằm giúp cậu con trai giải trí lúc đang phải nằm bẹp trên giường vì ốm. Đối với cậu bé, sự kiện chiếc kim cứ “bướng bỉnh” nhất định quay về một hướng nhất định là điều lạ chưa từng thấy!
Năm 12 tuổi, cậu lại bị thôi miên lần thứ hai bởi cuốn Hình Học Euclid do chú Jacob tặng, đến nỗi cậu gọi đó là “cuốn sách nhỏ hình học thiêng liêng” (the holy geometry booklet). Cậu thán phục phương pháp chứng minh sáng sủa, khúc chiết, thuyết phục, và chắc chắn của Euclid như một phép lạ của tư duy. Không thể có cuốn sách nào hay hơn nữa!
Vì quá say mê với cái mới lạ, Einstein trở thành một học sinh – sinh viên tự do “vô kỷ luật” hạng nhất. Anh chỉ theo đuổi những lý thuyết mới lạ mà anh thích, ngược lại anh bỏ những giờ học trên lớp đối với những môn học mà anh thấy cũ kỹ nhàm chán. Nhà vật lý Abraham Pais, một người bạn của Einstein, sau này kể lại rằng trong đời ông, ông chưa từng thấy ai có tính cách tự đo như Einstein.
Thật vậy, tại Đại học bách khoa ETH của Thuỵ Sĩ, Einstein đã thi trượt môn vật lý trong phòng thí nghiệm của giáo sư Jean Pernet. Đó là lần duy nhất anh thi trượt. Einstein không thích Pernet ngay từ đầu, và đó là lý do chủ yếu dẫn tới thi trượt. Tính cách vốn tự do, Einstein bỏ rất nhiều giờ giảng của Pernet, làm cho Pernet rất khó chịu. Pernet đã báo cáo với ông hiệu trưởng về thói bất tuân thủ của Einstein, rằng Einstein là một sinh viên vô lễ, kiêu căng tự phụ. Khi Einstein gặp ông để phân trần, Pernet nói thẳng thừng: “Cậu nên tìm một lĩnh vực khác để theo đuổi, bởi vì cậu chẳng có hy vọng gì về vật lý, vật lý quá khó đối với cậu” (!). Pernet đánh trượt Einstein bằng cách cho Einstein điểm 1 đối với bài thi kết thúc môn học của ông, điểm thấp nhất có thể cho.
Môn học thứ hai tại ETH mà Einstein cũng thường xuyên vắng mặt là giờ toán của giáo sư Hermann Minkowski. Mặc dù Minkowski là một nhà toán học nổi tiếng đương thời, nhưng điều đó dường như cũng không đủ để thuyết phục Einstein, nếu bản thân anh chưa thấy những giờ toán đó cần thiết trực tiếp cho những cái mới lạ mà anh đang theo đuổi. Cũng tương tự như Pernet, Minkowski rất ghét Einstein, và ông không thương tiếc mắng Einstein là “con chó lười biếng” (a lazy dog). Trớ trêu thay, năm 1907, khi Minkowski cùng với David Hilbert, một trong những nhà toán học lớn nhất bấy giờ, chuẩn bị cho một chuyên đề về điện động học của các vật thể chuyển động, ông vớ được công trình về thuyết tương đối hẹp của Einstein, trong đó có những tư tưởng trùng lặp với công trình toán học của chính ông – tư tưởng về không - thời – gian bốn chiều, gồm 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Minkowski không thể tin vào mắt mình, ông nói với mọi người rằng Einstein không thể làm ra một công trình như thế được. Trong thâm tâm, ông vẫn nghĩ về Einstein vốn là một “con chó lười biếng”. Còn chúng ta khi biết sự việc này, không thể không lấy làm ngạc nhiên khi thấy Einstein đã “đi đường tắt” quá nhanh để đạt tới những tư tưởng lớn như vậy. Cái gì đã làm cho ông có khả năng “đi đường tắt” như thế, nếu không phải do những cái mới lạ cuốn hút mạnh mẽ, giúp ông gạt phắt mọi trở ngại trên đường đi để chỉ nhắm tới một cái đích duy nhất mà tiến tới?
Vậy nếu Einstein bỏ những giờ học quan trọng như thế thì anh học cái gì? Anh tự học mọi thứ khi anh thấy cần thiết, và đặc biệt, anh học những thứ mới lạ mà anh bị quyến rũ. Nếu cái mới lạ ấy không được dạy trong nhà trường, anh tự tìm đọc ở thư viện. Giống như nhiều vĩ nhân khác, Einstein là một trong những tấm gương tự học vĩ đại nhất. Một trong những lý thuyết hiện đại nhất thời bấy giờ nhưng chưa được dạy trong nhà trường là Lý thuyết sóng điện từ của James Clerk Maxwell. Einstein đã tìm học lý thuyết này và anh say mê đến nỗi Maxwell đã trở thành một trong số những người có ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với anh. Một trong những công trình đầu tiên và để đời của Einstein cũng chính là công trình về điện từ: Thuyết lượng tử ánh sáng công bố năm 1905 - một trong hai công trình khai sinh ra vật lý lượng tử.
Sau này, năm 67 tuổi, Einstein đã viết hồi ký kể lại kỉ niệm về chiếc la bàn và cuốn Hình Học Euclid, và ông gọi đó là hai “kỳ quan” (wonder) trong đời ông. Ai cũng thấy Ankorvat ở Campuchia là một kỳ quan, nhưng ít ai xúc động mạnh mẽ trước những “kỳ quan bình thường” như Einstein đã từng xúc động. Ở đây nổi lên một vấn đề: thiên tài là những người cảm nhận được cái mới lạ trong những cái bình thường!
Quả thật Einstein có một trực giác thiên tài để phát hiện ra cái mới lạ trong những sự kiện tưởng chừng như đã quá cũ kỹ.
3- Cái mới lạ trong cái cũ kỹ
Jođeph – Louis Lagrange, một nhà toán học lừng lẫy người Pháp trong thế kỷ 18, một lần nữa chua xót than phiền rằng chỉ có mỗi một vũ trụ duy nhất thế mà Newton đã khám phá hết thảy mọi bí mật căn bản của nó rồi, các nhà khoa học khác chẳng còn gì để khám phá nữa (!).
Nhưng Einstein chứng minh rằng Lagrange đã nhầm: Vũ trụ vẫn còn đầy rẫy những điều kỳ lạ để khám phá!
Thật vậy, ngay từ khi tốt nghiệp trung học và sau khi tốt nghiệp đại học, Einstein cảm thấy giả thuyết ether là điều khó tin. Đặc biệt, thí nghiệm đo vận tốc ánh sáng của Michelsson – Morley là một sự kiện lạ lùng làm cho Einstein mất ăn mất ngủ.
Trong thế kỷ 19, hầu hết các nhà khoa học, kể cả một người tài ba lỗi lạc như Maxwell, đều tin rằng tồn tại một dạng vật chất đặc biệt lấp lín trong không gian được gọi là ether - một môi trường trung gian để ánh sáng truyền qua nó từ điểm này đến điểm khác trong vũ trụ. Nhưng thí nghiệm của Michelsson – Morley cuối thế kỷ 19 cho thấy rằng chẳng hề có một thứ ether nào cả, và điều kỳ lạ nhất là ánh sáng có vận tốc không thay đổi, không phụ thuộc vào bất cứ hệ quy chiếu nào cả , không tuân theo định luật cộng vận tốc của Galilei mà cơ học Newron đã thừa nhận như một nền tảng. Đó là một thách thức đối với các nhà vật lý cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Bản thân Michlesson và Morley nghĩ rằng có thể họ đã phạm sai lầm. (Tuy nhiên nhờ thí nghiệm này mà Michelsson trở thành người Mỹ đầu tiên được tặng Giải Nobel vật lý).
Einstein bị thu hút toàn bộ tâm trí vào chuyện mới lạ khó hiểu này, để sau vài năm, năm 1905, từ trong bóng tối không ai biết, một nhân viên quèn tại Sở cấp bằng sáng chế phát minh ở Bern, Thuỵ Sĩ, đã làm cả thế giới phải sửng sốt ngạc nhiên khi công bố Thuyết tương đối hẹp (Special Theory of Relativity), làm đảo lộn cơ học Newton, tạo nên một trong những cuộc cách mạng nhận thức vĩ đại nhất của loài người.
Cũng trong năm đó, Einstein còn công bố thêm 3 công trình vĩ đại khác. Cho đến nay, người ta vẫn không thể hiểu nổi làm thế nào mà chỉ trong vòng vài tháng, một người trẻ tuổi không có tên tuổi trong giới hàn lâm, lại có thể cống hiến cho nhân loại một khối lượng sáng tạo lớn lao và vĩ đại đến như thế. Nhưng chúng ta có thể biết rõ: Einstein là người bị quyến rũ mãnh liệt nhất bởi cái mới lạ - kỳ quan - của tự nhiên.
Vì thế, năm 1905 được gọi là Năm Thần Diệu(Miracle Year) của Einstein, và bản thân ông chỉ sau một vài tháng của năm 1905, đã trở thành “Conperrnicus của thế kỷ 20”, như lời ca ngợi của Max Planck! Chẳng bao lâu sau ông lại làm thế giới còn ngạc nhiên hơn nữa khi đưa ra Thuyết tương đối tổng quát. Bộ óc của ông, sau khi ông mất, đã trở thành một đối tượng kỳ lạ của khoa học thần kinh, trong khi Thuyết tương đối tổng quát của ông lại dẫn tới hàng loạt những khám phá kỳ lạ trong khoa học hiện đại những năm gần đây.
4- Di sản kỳ lạ do Einstein để lại:
Sau khi sinh hạ cậu con trai duy nhất của mình năm 1879, bà mẹ Einstein giật mình lo lắng thấy con mình trông như một “quái thai” (a monster): Đầu cậu bé có hình dạng lạ lùng và to khác thường. Nhưng ông bác sĩ giải thích để bà yên lòng rằng chẳng có gì bất thường khi một đứa bé mới sinh có cái đầu méo mó, và ông quả quyết rằng đầu cậu bé sẽ sớm trở lại bình thường. Thực tế cho thấy ông bác sĩ hoàn toàn đúng: Chỉ vài tuần sau, đầu cậu bé đã cân đối trở lại.
Sau khi Einstein mất năm 1955, Thomas Harvey, một nhà bệnh lý học, đã bảo quản bộ não của ông, lấy một số mẫu từ các mô não của ông để nghiên cứu, nhưng chẳng thấy điều gì khác thường. Tuy nhiên năm 1999, Sandra Witelson tại Đại học McMaster ở Canada đã khám phá ra rằng não của Einstein là trường hợp duy nhất không có đường rãnh “Sulcus” ngăn cách phần thuỳ thuộc thái dương (temporal lode) với phần thuỳ dưới hộp sọ (parietal lode). Các nhà khoa học suy đoán rằng sự vắng mặt đường rãnh này có thể cho phép hình thành thêm nhiều neuron thần kinh tại khu vực này, thiết lập nên một kênh thông tin nối liền các phần não với nhau để cùng làm việc chung một cách dễ dàng, tạo ra một khu vực rộng phi thường trên vỏ não có khả năng tổng hợp cao. Bí mật về bộ não của ông hiện vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu.
Tuy nhiên si sản do lý thuyết của ông để lại mới thực sự kỳ lạ. Một trong những hệ quả quan trọng nhất của thuyết tương đối tổng quát là việc khám phá ra hiện tượng vũ trụ giãn nở. Từ hiện tượng này, người ta lại khám phá ra rằng vật chất hiện diện trước mặt chúng ta quá nhỏ bé so với lượng vật chất có thật trong vũ trụ! Bỗng nhiên, lời của Pierre Simon Laplace trong thế kỷ 19 lại trở nên sống động: “Cái mà biết thì ít ỏi vô cùng, cái mà ta không biết thì mênh mông!” (Ce que nous savons est peu de choses, ce que nous ignorons est immense).
Trước sự thật đó, Neta Barcall tại Đại học Princetonđã phải thốt lên rằng “Vũ trụ của chúng ta nhẹ bỗng!”. Vũ trụ bà nói tới ở đây là vũ trụ nhìn thấy, bao gồm vật chất đã biết hiện nay chỉ chiếm khoảng 5% tổng lượng vật chất trong vũ trụ, còn lại là những dạng vật chất kỳ lạ chưa hề biết, trong đó:
- Vật chất tối (dark matter) - dạng vật chất chưa biết, có khối lượng, tạo nên lực hấp dẫn, có xu hướng kéo vũ trụ co cụm về một điểm - chiếm khoảng 30 % tổng lượng vật chất trong vũ trụ.
- Năng lượng tối (dark energy) - dạng vật chất chưa biết tạo nên lực phản hấp dẫn (antigravity) có xu hướng đẩy cho vũ trụ giãn nở ra bên ngoài - chiếm phần còn lại, 65%.
Vấn đề vật chất tối và năng lượng tối hiện đang là câu chuyện kỳ lạ nhất của vật lý và vũ trụ học hiện đại. Để khám phá ra chúng, lại cần phải có những tâm hồn khát khao chảy bỏng với cái mới lạ. Nhưng tâm hồn ấy đang ở đâu đó giữa chúng ta, hoặc sắp sinh ra!.