Bán đảo Cà Mau
Vào khoảng cuối thế kỷ XVI, Hà Tiên vẫn còn là vùng đất hoang vắng vô chủ trong vùng vịnh Xiêm La. Thật vậy, trong bán du kí ấn hành năm 1794, của Pierre Poivre, nhà du hành người Pháp (1), viết: “Khi rời khỏi quần đảo Mã Lai, chúng tôi tới một lãnh thổ nhỏ, gọi là Cancar (2)và được biết theo bản đồ hải quân dưới danh hiệu Ponthéamas. Lãnh thổ này nằm trong vương quốc Xiêm (sic), giữa một bên là xứ Cao Miên, một bên là những đất đai dưới quyền đô hộ của người Mã Lai…”
“Bị bao quanh bởi những nước láng giềng như thế, nên cách đây khoảng 50 năm, xứ tốt đẹp này là một vùng hoang vu, gần như không có người ở”…
Nhưng qua đầu thế kỷ XVIII, vùng vịnh này trở nên sôi động, nổi tiếng, tập trung một số dân tứ chiếng hải hồ đủ các quốc tịch của miền Đông Nam Á đến đây hoạt động ngư nghiệp, thương mại và cũng thu hút không ít các đám thảo khẩu / hải tặc. Hà Tiên còn là nơi trú ngụ tạm thời để tránh bão tố, tu sửa thuyền bè…
Người có công lớn làm nên sự thay đổi này là Mạc Cửu. Khi đến quản lý đất này, Mạc Cửu xây thành trên bờ biển, tổ chức công cuộc trị an, mở sòng bạc, thu thuế hoa chi, cất phố cho thuê, khuếch trương thương mại, mở trường dạy học… Ông kêu gọi lưu dân đến Phú Quốc, Luống Cày (Lũng Kỳ), Cần Bột (Kampot), Giá Khê (Rạch Giá), Vũng Thơm (Hương Úc, Kompong Som) và Cà Mau khai phá và thành lập 7 xã (3).
Bảy cụm cư dân đầu tiên trên vùng ven vịnh Thái Lan kéo dài từ Hà Tiên đến tận Cà Mau thể hiện ý đồ chiến lược của Mạc Cửu bám trụ khai thác vùng này, lấy Hà Tiên làm trung tâm. Riêng cụm Cà Mau, Mạc Cửu không đặt ở vùng duyên hải như các cụm cư dân khác, mà đưa vào sâu trong đất liền, để cụm này vừa có thể tiến sâu vào nội địa vừa kiểm soát, khống chế cả mũi Cà Mau ở cả hai mặt vịnh Xiêm La và biển Đông.
Vì tương lai lâu dài của Hà Tiên trước áp lực của Xiêm, Mạc Cửu sai thuộc hạ là Trương Cầu và Lý Xá dâng biểu trần tình đến kinh đô Phú Xuân xin nội thuộc chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Mùa thu năm Mậu Tý (1708), chúa Nguyễn Phước Chu phong Mạc Cửu làm Tổng Binh trấn Hà Tiên với tước Cửu Ngọc Hầu (4).
Như vậy, trước năm 1708 đã có người Việt đến sinh sống ở Cà Mau và có thể nói, Cà Mau và Rạch Giá (Giá Khê) là hai tụ điểm cư dân đầu tiên trên bán đảo này.
Người Khmer gọi miệt Rạch Giá là “Khmun so” nghĩa là vùng Sáp ong trắng, vì rừng ở đây phần lớn là rừng tràm, ong hút mật bông tràm cho ra sáp trắng, còn mật bông giá sẽ cho sáp vàng.
Còn tên gọi Cà Mau xuất phát từ “Tưk Khmâu” có nghĩa là Nước đen (tưk = nước, khmâu = đen). Nước đen là một hiện tượng tự nhiên phổ biến ở đây. Ở U Minh có vô số sông rạch lớn nhỏ, đầm trấp… như Ông Đốc, Bảy Háp, Cán Gáo, Tân Bằng, Cái Nước, Trèm Trẹm, Rau Dừa, Cái Rắn, Cái Ngan, Cái Ngay… chảy xuyên qua rừng tràm với đầy rẫy các loài cây hoang dại khác, như: cây dớn (5), dây mây, dây choại, dừa nước, gừa, lau sậy, năn lát, cỏ nước mặn… do nước ngập lưu niên nên một vài bộ phận của chúng rơi rụng xuống nước mục rữa ra làm cho nước có màu nước trà đậm, có khi màu đen, có mùi hôi và có vị chua của phèn (6).
Có thể địa danh Cà Mau xuất hiện vào đầu hoặc trễ lắm là vào giữa thế kỷ XVII, khi lưu dân tiên phong người Việt đặt chân lên bán đảo này.
Trong buổi đầu khai mở, chính môi trường sinh thái ngập nước với hệ động - thực vật hết sức phong phú, đa dạng… trên địa bàn sông rạch chằng chịt ở đây làm chậm tiến độ khai hoang so với vùng khác, vì lưu dân thấy khai thác nguồn lợi tự nhiên trước mắt lợi hơn phá rừng lập ruộng.
Họ Mạc cùng lưu dân người Việt, người Hoa mở rộng đất Hà Tiên từ mũi Cà Mau ngược lên đến bờ sông Hậu. Năm Bính Thìn (1736), Mạc Cửu qua đời, con là Mạc Thiên Tứ, vẫn được chúa Nguyễn cho kế vị làm Tổng binh trấn Hà Tiên.
Năm Đinh Sửu (1757), quốc vương Chân Lạp là Nặc Nguyên mất, chú họ là Neac Ang Nhuan (Nặc - Nhuận) đang làm giám quốc, xin hiến đất Srok Treang (tức đất Ba Thắc gồm Sóc Trăng - Bạc Liêu) và Préah Trapeang (tức đất Trà Vang gồm Trà Vinh - Bến Tre) cầu xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp, chúa Võ vương chấp thuận.
Nhưng liền sau đó Nặc - Nhuận bị con rể là Nặc - Hinh (Néac Hing) giết và cướp ngôi. Cháu Nặc - Nhuận là Nặc Tôn (Néac Tong) con Nặc - Nguyên, chạy sang Hà Tiên, nhờ Mạc Thiên Tứ, tâu với chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ vương thuận cho, và sai tướng Thống suất ngũ dinh tại Gia Định Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp và đưa Nặc - Tôn về nước. Nặc - Hinh thua chạy bị kẻ thuộc hạ làm phản giết chết. Nặc - Tôn được phong làm phiên vương.
Để tạ ơn, Nặc Tôn cắt đất Tầm Phong Long (gồm các vùng Sa Đéc, Châu Đốc và Tân Châu) dâng cho chúa Nguyễn (7). Riêng Mạc Thiên Tứ, được Nặc Tôn dâng cho 5 phủ: Hương Úc (Vũng Thơm, Kompong - Som), Cần Bột (Kampot), Sài Mạt (Cheal Meas), Chưng Rùm, Lình Quỳnh (vùng duyên hải từ Sré - Ambel đến Péam tức Hà Tiên). Mạc Thiên Tứ mang hết đất này dâng cho chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho 5 phủ ấy thuộc quyền quản hạt của trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ xin lập hai đạo: đạo Kiên Giang ở Rạch Giá và đạo Long Xuyên ở Cà Mau, đặt quan cai trị, chiêu mộ lưu dân đến tiếp tục khai phá thành lập thôn ấp.
Đối chiếu với bản đồ của Taberd ấn hành năm 1836 (trích trong bản đồ An Nam Đại quốc), thì bán đảo Cà Mau ngày nay nằm trọn trong đạo Long Xuyên và một phần đạo Kiên Giang.
Trên bán đảo có 2 hệ thống sông rạch và 1 hệ thống kênh đào:
- Sông rạch chảy ra vịnh Xiêm La, có: Trèm Trẹm, Cái Tàu, Ông Đốc, Đồng Cùng, Bảy Háp, Cửa Lớn (Cái Lớn), Đầm Dơi, Đầm Chim, Vàm Đầm, Dày Chảo, Cái Ngay và nhiều rạch nhỏ khác, như: Cái Chồn, Bà Thanh, Ông Quyền, Ông Định, Ông Như, Tắt Biển, Biện Nhạn, Nhưng Miên, Ông Thược, Cây Me, Ông Trang, Cái Xếp…
- Sông rạch chảy ra Biển Đông, gồm: Đường Kéo, Bồ Đề, Gành Hào…
- Kênh đào: gồm có kênh Cà Mau - Giá Rai - Bạc Liêu, kênh Gành Hào - Bảy Háp, Gành Hào - Hộ Phòng, Tắc Vân - Gành Hào, Trèm Trẹm - Lớn, Kiểm Lâm, Biện Nhị, Bà Kẹo, Đồng Cùng, Bà Bèo, Cái Rắn - Ông Tự, Chắc Băng, Mương Điều… Các kênh này được đào bằng xáng cơ giới.
Ngoài ra, phải nói đến hệ thống kênh đào thủ công dưới thời Gia Long, được Trịnh Hoài Đức gọi là Thập Câu: “Ở phía tây nam đạo Long Xuyên, từ ngòi thứ nhất đến ngòi thứ mười trải dài cân nhau, do nước từ ao chằm, đồng ruộng chảy thông ra ngoài biển; ở đấy sinh nhiều tôm cá” (8). Trong khi dân gian quen gọi là Miệt Thứ (tức là vùng có tới trên 10 tên gọi đều bắt đầu từ chữ Thứ). Ngày nay qua phà Tắc Cậu, theo kênh xáng Xẻo Rô, ta lần lượt đi qua các làng quê chằng chịt kênh rạch ve U Minh. Đây là vùng đất rộng, trước chủ yếu là rừng sau được khai thác trồng lúa trồng màu… chạy dọc theo duyên hải vịnh Thái Lan từ vàm sông Cái Lớn đổ xuống phía Nam .
Bán đảo Cà Mau chia ra 2 khu vực:
- U Minh Thượng: tọa lạc trên địa bàn các xóm Cái Nước, Thầy Quơn, Chắc Băng (địa điểm sân chim ngày xưa), kể đến Tân Bằng, Ngã Bát, vùng than bùn Chắc Băng (rầy khóm), vùng than bùn Tân Bằng (rầy khoai mì). Nay thuộc huyện An Biên, An Minh và Vĩnh Thuận (tỉnh Kiên Giang).
- U Minh Hạ: giới hạn bởi bờ vịnh Thái Lan, sông Ông Đốc (nay gọi là Sông Đốc), rạch Cái Tàu, nối qua rạch Tiểu Dừa (đường Gia Long tàu quốc). Ngày nay thuộc các xã Khánh Lâm, Khánh An (huyện U Minh), xã Trần Hợi, Khánh Bình, Tây Bắc (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau).
Cà Mau, Rạch Giá lần hồi phát triển thành 2 trung tâm cư dân lớn, nhờ sản xuất nhiều lâm thủy sản (mật ong, sáp ong, lông chim, thú rừng, cá tôm… về sau là lúa gạo, làm bàn đạp kích thích công cuộc khai phá tiến sang bờ Ba Thắc. Sông Cái Bé, sông Cái Lớn là con đường thủy tự nhiên đưa lưu dân đến rạch Ba Láng, Ô Môn… dẫn đến sự thành lập 2 đạo Trấn Di (phía bắc Bạc Liêu) và Trấn Giang (Cần Thơ) vào năm 1739.
Sách Gia Định thành thông chícho biết, khoảng trước năm 1820, đạo Long Xuyên (Cà Mau), thành lập được 2 tổng với 40 xã, thôn, điểm, nậu, thuộc:
- Tổng Long Thủy có 23 xã, thôn, nậu, thuộc.
- Tổng Quản Xuyên có 9 thôn, nậu.
Năm 1825, bỏ quản đạo, đặt tri huyện, Cà Mau thuộc huyện Hà Tiên. Năm 1832, Hà Tiên nâng lên thành tỉnh, Cà Mau nằm trong huyện Hà Châu, phủ Khai Biên. Năm 1836, Cà Mau nằm trong phủ An Biên, huyện Long Xuyên, gồm 2 tổng như trước: tổng Long Thủy (có 2 xã, 30 thôn), tổng Quảng Long (gồm 2 xã và 12 thôn). Dưới thời Pháp thuộc, Cà Mau thuộc hạt Rạch Giá, đến 1881, thuộc hạt Bạc Liêu. Sau năm 1910, đổi thành tỉnh Bạc Liêu cho đến năm 1954. Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, bán đảo Cà Mau nằm trong tỉnh An Xuyên và một phần của 2 tỉnh Chương Thiện và Kiên Giang.
Khi đạo Long Xuyên (bán đảo Cà Mau) khai hoang chưa hoàn chỉnh, thì Nam bộ rơi vào cuộc nội chiến Tây Sơn Nguyễn Ánh (1777 - 1789), do nằm ở vị trí đặc biệt, bán đảo Cà Mau trở thành địa bàn tiến thoái của Nguyễn Ánh. Liên tiếp trong những năm 1777, 1782, 1783, 1784, 1787… sông Cái Lớn, sông Ông Đốc với các chi nhánh ăn thông tận U Minh Thượng, U Minh Hạ là nơi đi lại, trú ẩn của Nguyễn Ánh. Những dãy nền nhà (líp) ở vùng Cạnh Đền, Cây Bàng… mấy chiếc ghe ô, ghe sa ở rạch Cái Bát (ngọn của sông Trèm Trẹm), nền công chúa ở rạch Cái Tàu, xóm Long Ẩn, Ao Ngự ở rạch Cái Rắn… cùng những giai thoại dân gian liên quan đến Nguyễn Ánh còn truyền tụng ở vùng sông Ông Đốc, rạch Cái Tàu, Hang Mai, Kim Quy, Cán Gáo… giúp người nghe quả quyết rằng Nguyễn Ánh đã từng trú ngụ ở đây và thoát hiểm ra biển hồi tháng 8 - 1783 theo rạch Tiểu Dừa.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập dân tộc, Cà Mau với rừng U Minh cùng hệ thống sông rạch như màn nhện đã từng là nơi đứng chân của Xứ ủy Nam bộ, Khu ủy, Tỉnh ủy của một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Vùng Chắc Băng được làm nơi tập kết chuyển quân vào cuối năm 1954.
Trong xu thế phát triển của cả nước, 2 cụm cư dân đầu tiên được hình thành trên bán đảo Cà Mau thời Mạc Cửu, nay trở thành 2 thành phố lớn năng động đầy tiềm năng ở đồng bằng sông Cửu Long.
CHÚ THÍCH:
(1) Bản dịch của Emile Gaspardon, trong bài Un Chinois des Mers du Sud; Le Fondateur.Trên tạp chí Juornal Asiatique,1952.
(2) Tức Hà Tiên, lúc bấy giờ Hà Tiên còn có nhiều tên khác, như: Coall (Bồ), Peam hay Mang Khảm (Campuchia), Ponthaymat (Xiêm), Hathien (Pháp) còn Cancar hay Canco là biến thể của cách nói theo tiếng Quảng Đông của Kiangk’eau, Kang K’ao hay Kong K’ao tức Cảng Khẩu.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Đại Nam thực lục tiền biên,Bản dịch Việc Sử học, Hà Nội, tr.167.
(4) Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí,Phủ QVKĐTVH, tập Trung, tr.79-80.
(5) Cây Dớn còn gọi là rau ráng, thân thấp, gốc mọc trong nước, thân nhô lên thành từng bụi, thường xuất hiện ở ven sông. Có khi cây ráng tập trung thành vùng rộng lớn, địa hình này được gọi là “Dớn”; ở Cà Mau có địa danh Dớn Hàng Gòn, Dớn Rạch Giếng…
(6) Nghê Văn Lương (1972), Cà Mau xưa An Xuyên nay,Trung tâm Học liệu, Sài Gòn, tr.19.
(7) Lê Hương: Lịch sử Cao Miên,chép: “… Bên này, người Việt Nam, gây rối trong những vùng thuộc miền Nam Cao Miên, giữa nhánh sông Mékong về phía Tây, vùng Hà Tiên và cao nguyên Bac Lim (?) Các tay gián điệp xúi giục dân chúng ở tỉnh Treang Banteay, Meas, Bati, Preykrabas nổi loạn. Quốc vương Ang Tong bị áp lực của người Việt phải nhượng tỉnh Phsar Dek (Sa đéc) vào năm 1757 và hai thị trấn thuộc Long Hồ (Vĩnh Long) và Meat Chrouk (Châu Đốc)”.
(8) Trịnh Hoài Đức, (1972), Sđd, Bản dịch Tu Trai Nguyễn Tạo, Phủ QVKĐTVH, Sài Gòn, tr.47.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Um Chinois des Mers du Sud, Le Fondateur,Trên tạp chí Journal Asiatique,1952 Bản dịch của Emile Gasparrdon.
-Trền Kinh Hòa, Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên,Tạp chí Văn hóa Á châu,số 7, 1958.
- Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Đại Nam thực lục tiền biên,Bản dịch Viện Sử học, Hà Nội.
- Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí,Phủ QVKĐTVH, tập Trung.
- Nghê Văn Lương (1972), Cà Mau xưa An Xuyên nay,Trung tâm Học liệu, Sài Gòn.
- Sơn Nam (1959), Phú Sa,Sài Gòn.
- Lê Hương (1970), Lịch sử Cao Miên,Sài Gòn.








