Bài học kinh nghiệm từ việc giảm nhẹ rủi ro thiên tai do biến đổi khí hậu
Xu hướng thiên tai tại châu Á
Nargis, Ketsana, Mirinae, Parma là những cái tên gợi lên hình ảnh của sự tổn thât, tàn phá và hủy diệt. Chỉ trong 5 năm vừa qua, chúng ta đã ghi lại được vô số những hình ảnh của sự hỗn loạn và những dư chấn của thảm họa thiên tai từ lốc xoáy tới bão, rồi bão lớn và động đất. Trung tâm Nghiên cứu Dịch tế học Thiên tai (CRED) mới đây đã công bố rằng thiên tai đã ảnh hưởng tới gần hai tỷ người từ năm 2000 đến năm 2009, phần lớn bị ảnh hưởng bởi hạn hán, bão lớn và lụt lội. Thiên tai trong giai đoạn này đã giết hơn 780.000 người (60% là do động đất), và thiệt hại về kinh tế ít nhất là 960 tỷ đô la Mỹ.
Đặc biệt, châu Á phải chịu những tổn thất liên tục với số người thiệt mạng trong thiên tai thường chiếm tới 85%. Theo đánh giá của Ủy ban kinh tế xã hội châu Á và Thái Bình Dương của Liên Hiệp Quốc (ESCAP), một người dân sống tại châu Á bị ảnh hưởng bởi thiên tai gấp 4 lần so với người dân sống tại châu Phi và 25 lần so với người dân sống tại châu Âu hoặc Bắc Mỹ.
Tại sao châu Á lại bị ảnh hưởng nặng nề như vậy? Thiên tai thường là hệ quả của những mối quan hệ qua lại phức tạp giữa sự tiếp xúc trực tiếp với hiểm họa thiên nhiên và tình trạng dễ bị tổn thương. Một ví dụ của hiểm họa thiên nhiên là đất nước Indonesia, nằm trên vành đai lửa Thái Bình Dương, một khu vực thường xuyên xảy ra động đất và núi lửa. Ngoài ra, sáu trong số tám thành phố đông dân nhất trên thế giới thường phải gánh chịu động đất là những thành phố ở châu Á.
Tình trạng dễ bị tổn thương là một tập hợp của nhiều yếu tố (ví dụ, sự nghèo đói, bất bình đẳng giới, vị trí tự nhiên, giáo dục, khả năng tiếp cận tài chính và tín dụng). Xu hướng đô thị hóa cũng chính là một động lực quan trọng ảnh hưởng tới tình trạng tiếp xúc trực tiếp tới hiểm họa và tình trạng dễ bị tổn thương tại các thành phố. Theo ESCAP, tốc độ đô thị hóa tại châu Á không nơi nào trên thế giới có thể sánh kịp. Thiên tai thường là hệ quả của những mối quan hệ qua lại phức tạp giữa sự tiếp xúc trực tiếp với hiểm họa thiên nhiên và tình trạng dễ bị tổn thương.
Các khu vực đô thị đang đối mặt với áp lực phải thỏa mãn nhu cầu gia tăng về cơ sở hạ tầng và dịch vụ - điều thường xảy ra vượt quá khả năng đáp ứng thông thường. Những vấn đề như tình trạng sử dụng đất và quy hoạch cơ sở hạ tầng kém hiệu quả ở vùng đô thị, cùng với việc quy hoạch phát triển bờ biển, cơ chế chính sách loại trừ trong nhà ở đô thị cũng như sử dụng nguyên liệu không phù hợp, tất cả những điều đó có thể làm tăng thêm tính dễ bị tổn thương và làm trầm trọng thêm những thiệt hại từ thảm họa thiên nhiên.
Giảm nhẹ rủi ro thiên tại - Một phần quan trọng của sự chống chịu với biến đổi khí hậu ở đô thị
Tiến trình đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu (ĐTTƯBĐKH) có thể đúc rút được kinh nghiệm từ quá trình giảm nhẹ rủi ro thiên tai (GNR-RTT) và nhữn khả năng giảm thiểu thiệt hại đặc biệt trong bối cảnh gia tăng số lượng thiên tai như hiện nay. Các biện pháp được sử dụng trong quá trình GNRRTT là một tập hợp những hoạt động quan trọng bổ xung cho việc xây dựng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu tại đô thị với quy mô lớn hơn - để đối phó với cả những tác động ngắn hạn cũng như những thay đổi chậm và khó nhận biết nhưng cảnh báo những mối hiểm họa đối với sinh kế, sức khỏe, văn hóa và xã hội.
GNRRTT cũng là tiền đề cho chính quyền thành phố và lãnh đạo các ban ngành có liên quan nhìn nhận đến những rủi ro của hiện tại và tình trạng tiếp xúc trực tiếp với thiên tai cũng như việc làm thế nào để kiểm soát được chúng, đặc biệt đối với những khu vực và nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Trọng tâm của GNRRTT là hướng tới việc xây dựng khả năng chống chịu với khó khăn trước mắt (ví dụ, lũ lụt,, lụt bão, hạn hán kéo dài). Cộng đồng, chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội dân sự cũng đang nỗ lực gia tăng hợp tác để giảm nhẹ rủi ro thiên tai.
Tuy nhiên, ngày càng phải làm nhiều việc hơn vì những tác động do biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn hệ thống nước ngầm hay thay đổi quy mô dịch bệnh sẽ không phù hợp với khuôn khổ của GNRRTT. Nhiều phương pháp tiếp cận do những cộng đồng có nhiều hoạt động giảm nhẹ rủi ro thiên tai tạo dựng có tính ứng dụng và thực sự quan trọng cho quá trình xây dựng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu. Ví dụ, trong khi có những sự việc vẫn đang gây tranh cãi, các chuyên gia đã hoàn toàn nhất trí về giá trị của việc huy động cộng đồng địa phương vào quá trình GNRRTT. Sự tham gia của địa phương rất quan trọng do chính bản thân họ đang đối mặt với hiểm họa thiên tai và qua sự tham gia, họ sẽ học hỏi cách thức xác định những giải pháp ngăn ngừa thích hợp nhất cho từng hoàn cảnh. ĐTTƯBĐKH cũng ghi nhận sự tham gia của cộng động như là yếu tố quyết định sự thành công của quá trình chuẩn bị cho các thành phố ứng phó với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong hiện tại và tương lai.
Mạng lưới các thành phố châu Á có khả năng chống chịu với BĐKH
Mạng lưới các thành phố châu Á có khản năng chống chịu với biến đổi khí hậu (ACCRN) tập hợp và sử dụng những nguyên tắc và cách làm thực tiễn và hiệu quả nhất của quá trình quản lý và phát triển đô thị, thích ứng với BĐKH và GTRRTT nhằm hỗ các cộng đồng và hệ thống đô thị chuâ Á có nguy cơ tổn thương cao để giải quyết những vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu một cách thực tế nhất cho hiện tại và tương lai.
Các thành phố ACCRN đang xác định tình trạng dễ bị tổn thương trong hiện tại tương lai, đồng thời xác định những khu vực và nhóm dân cư dễ bị tổn thương cũng như bắt đầu xây dựng chiến lược chống chịu và kế hoạch hanh động. Các thành phố đang sử dụng tập hợp các phương pháp và công cụ tập trung vào quá trình "Đối thoại - Chia sẻ - học hỏi" và Đánh giá - Tình trạng - Dễ bị - Tổn thương. Thông qua VA, các thành phố đang khám phá các khả năng hiện có để có thể nâng cao năng lực của họ sao cho có thể ứng phó và có khả năng chống chịu tốt hơn với biến đổi khí hậu. Kết quả của những VA này sẽ được sử dụng trong quá trình lập kế hoạch chống chịu. Các SLD được thiết kế để đảm bảo rằng những nhóm dân cư dễ bị tổn thương tại mỗi thành phố sẽ có cơ hội xây dựng năng lực ứng phó và tham gia vào quá trình chống chịu với biến đổi khí hậu tại thành phố.
Các thành phố sau đó sẽ thử nghiệm một số dự án thí đểm để tìm hiểu nhu cầu và khu vực dễ bị tổn thương cụ thể. Điều đó cũng giúp họ thu hút sự cam kết và tham gia của các bên liên quan. Ví dụ, tại thành phố Quy Nhơn, thành phố đối tác của dự án ACCCRN, VA và SLD đã giúp các dự án thí điểm nâng cao khả năng sẵn sàng đối phó với biến đổi khí hậu. Chính quyền thành phố đang điều chỉnh việc xây sửa nhà dân bằng cách nâng cao độ cao của nền nhà để đối phó với tình trạng ngập lụt. Thành phố Quy Nhơn cũng đánh giá tác động của khí hậu như tình trạng nước biển dâng trong phạm vi thành phố.
Thông qua những kế hoạch và hành động dựa trên những kinh nghiệm quốc tế và địa phương, các thành phố đang phát triển chiến lược và kế hoạch hành động chống chịu với biến đổi khí hậu và điều này sẽ giúp họ được chuẩn bị tốt hơn trước những thách thức của những hiểm họa liên quan đến biến đổi khí hậu hiện tại và trong tương lai.








