Ba trung tâm văn hóa tiêu biểu của một quốc gia - dân tộc thống nhất
Cùng với việc kết nghĩa là các hoạt động thiết thực góp phần vào giáo dục truyền thống dân tộc và cách mạng, trước hết là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, nâng cao ý chí và quyết tâm đoàn kết toàn dân, đạp bằng mọi gian nan thử thách, chiến đấu thực hiện mục tiêu cao cả là “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết. Việc kết nghãi của ba thành phố lớn nhất của ba miền Bắc, Trung, Nam và các giải pháp tuyên truyền, giáo dục kèm theo đã thực sự thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ quân dân ta trong cuộc đấu tranh quyết liệt giải phóng miền Nam, giành lại độc lập thống nhất và chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc.
Dưới khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “tất cả vì tiền tuyến lớn”, nhân dân Hà Nội cùng với nhân dân miền Bắc đã huy động sức người sức của cho chiến trường miền Nam. Lớp lớp thanh niên thủ đô đã xung phong nhập ngũ, tham gia lực lượng thanh niên xung phong, tham gia các đoàn cán bộ y tế, tuyên truyền bao chí, văn nghệ sĩ hăng hái vào chiến trường B và không ít người đã có mặtt rong chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, đặc biệt là trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn, cũng có người đã hi sinh, an nghỉ vĩnh iễn trên mảnh đất kết. Các tầng lớp nhân dân Huế, Sài Gòn, từ người lao động đến học sinh, sinh viên, tầng lớp trí thức, tín đồ tôn giáo có lúc âm thầm, bí mật, có lúc công khai, hợp pháp, có lúc bộc phát sôi nổi, quyết liệt, hoạt động trong vòng kiểm soát của đối phương ở miền Nam, ở Huế, Sài Gòn đều lập tức bị nhân dân Hà Nội tố cáo, lên án bằng những cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành… Ba thành phố kết nghĩa đã sát cánh với nhau và cùng nhân dân cả hai miền Nam, Bắc đoàn kết trong tình nghĩa đồng bào ruột thịt, trong ý chí và quyết tâm giành thắng lợi trong sự nghiệp hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất sơn hà.
Công việc kết nghĩa phát huy được nhiều tác dụng to lớn như vậy vì chủ trương đúng đắn đó đã khơi dậy và phát huy được sức mạnh có cội nguồn lịch sử và văn hóa sâu xa, bền vững trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Hà Nội - Huế - Sài Gòn là ba thành phố trên ba miền Bắc, Trung, Nam của một đất nước, một quốc gia dân tộc thống nhất. Mỗi thành phố có lịch sử hình thành, phát triển khác nhau, có những sắc thái riêng trong thanh điệu ngôn ngữ, trong lối sống, trong phong cách ứng xử, trong sinh hoạt văn hóa, nhưng trùm lên tất cả và trong chiều sâu của cuộc sống vẫn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, cùng chung một cội nguồn.
Vùng đất Hà Nội được con người bắt đầu khai phá cách đây khoảng 4.000 năm và vịnh Hà Nội được bồi tụ thành vùng thượng châu thổ sông Hồng. Trong thời đại dựng nước đời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng đất này đã trở thành một địa bàn kinh tế phát triển, cư dân trù mật. Di tích văn hóa Đông Sơn đã tìm thấy khá nhiều, trong đó có những di vật tiêu biểu như trống đồng Cổ Loa, lưỡi cày đồng, mũi tên đồng… Từ thế kỷ III TCN, với kinh thành Cổ Loa, vùng đất Hà Nội đã trở thành trung tâm chính trị, văn hóa của nước Âu Lạc, một bước tiếp nối và phát triển của nước Văn Lang đời Hùng Vương. Từ thời cổ đại, Hà Nội nằm trong địa bàn trung tâm của cái nôi văn hóa Văn Lang - Âu Lạc, của nền văn minh cổ xưa nhất của người Việt. Từ mạch nguồn đó, trong hơn nghìn năm thử lửa của thời Bắc thuộc, vùng đất Hà Nội luôn luôn giữ vai trò một trung tâm của cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, giành lại chủ quyền quốc gia, mở đầu từ cuộc nổi dậy của Tây vu vương, dòng dõi vua Thục, đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng dòng dõi vua Hùng, rồi khởi nghĩa Lý Bí với sự thành lập nước Vạn Xuân chọn vùng đất Hà Nội làm trung tâm chính trị, rồi khởi nghĩa Phùng Hưng, Mai Thúc Loan, Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ đều lấy thủ thành An Nam trên đất Hà Nội làm mục tiêu tấn công và sau khi chiếm lĩnh, biến thành trị sở của chính quyền độc lập.
Một sự kiện trọng đại và một cột mốc lớn của lịch sử Hà Nội và của cả nước là năm 1010 vua Lý Thái Tổ định đô Thăng Long. Từ đó cho đến cuối thế kỷ XVIII, gần 8 thế kỷ Thăng Long là kinh đô của nước Đại Việt, là trung tâm của nền văn minh Đại Việt. Trong thời Tây sơn và nhà Nguyễn, kinh đô chuyển vào Phú Xuân - Huế, nhưng Hà Nội vẫn là một trung tâm văn hóa, kinh tế lớn của đất nước. Trong thời Pháp thuộc, Hà Nội là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hà Nội lại được chọn làm thủ đô nước Việt Nam độc lập, từ năm 1976 là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam độc lập và thống nhất.
Xuất phát từ cái nôi của nền văn minh cổ đại rồi giữ vai trò kinh đô lâu dài của đất nước, Hà Nội là trung tâm hội tụ, kết tinh của các giá trị lịch sử, văn hóa dân tộc, qua giao lưu quốc tế hấp thụ nhiều ảnh hưởng của văn hóa khu vực và thế giới. Vì thế Hà Nội trở thành một thủ đô nghìn năm văn hiến, thủ đô anh hùng của cả dân tộc. Chính do bề dày lịch sử và hội tụ, tính giao thoa văn hóa đó là Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long được UNESCO đánh giá cao và có nhiều khả năng được công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào dịp kỷ niệm Thăng Long nghìn tuổi năm nay. Ngày 9 - 3 - 2010 vừa qua, 82 bia tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được UNESCO công nhận là Ký ức thế giới.
Thành phố Huế và rộng ra vùng đất Thừa Thiên - Huế là mảnh đất nằm giữa miền Trung, từ thời cổ đại thuộc địa bàn văn hóa sa Huỳnh, Chăm Pa có mối giao lưu mật thiết với văn hóa Đông Sơn của nước Văn Lang - Âu Lạc. Năm 111 TCN, vùng đất trung Trung bộ này bị nhà Hán xâm chiếm, lập thành quận Nhật Nam. Cuộc khởi nghĩa giành độc lập của cư dân Chăm do người anh hùng Khu Liên cầm đầu vào cuối thế kỷ II có sự hỗ trợ rất quan trọng của cư dân người Việt trên quận Cửu Chân (Bắc Trung bộ) và Giao Chỉ (Bắc bộ). Trong cuộc đồng minh chiến đấu chống quân xâm lược Nguyên, vương triều Đại Việt và Chămpa thiết lập quan hệ giao hòa hiếu dẫn đến cuộc hôn nhân của công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân (Jaya Sinhavarman IV) mà sính lễ là hai châu Ô Lý (Ulik), tức xứ Thuận Hóa, trong đó có vùng đất Thừa Thiên - Huế. Như vậy, vùng đất này hội nhập vào lãnh thổ Đại Việt không phải bằng sự xâm lấn hay chiến tranh mà là sản phẩm của quan hệ đồng minh chiến đấu, của sự bang giao hòa hiếu và một cuộc hôn nhân thân thiện. Từ đó, trên vùng đất này diễn ra sự chuyển dịch cư dân, sự giao thoa văn hóa Việt - Chăm. Nhiều di tích lịch sử Chămpa được bảo tồn, nhiều ảnh hưởng văn hóa Chăm được người Việt tiếp nhận làm phong phú cho vùng địa - văn hóa Thừa Thiên - Huế. Ngoài những di tích khảo cổ học trong lòng đất, trên mặt đất vùng này còn tồn tại di tích thành Lồi, tháp Mỹ Khánh. Theo kết quả nghiên cứu của một số nhà văn hóa, nghệ thuật âm nhạc và trang trí của Chăm để lại ảnh hưởng trên văn hóa Huế.
Vùng đất Huế cũng sớm trở thành thủ thủ của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong rồi kinh thành Phú Xuân của vương triều Quang Trung, người đã có công giải phóng Thuận Hóa, xóa bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài, đặt cơ sở lập lại nền thống nhất quốc gia. Từ năm 1802, Phú Xuân - Huế trở thành kinh đô của vương triều Nguyễn, kinh đô của một quốc gia thống nhất trên lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả đất liền, hải đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng sa, Trường Sa giữa biển Đông như lãnh thổ Việt Nam hiện đại. Với vai trò trung tâm chính trị, văn hóa của một quốc gia thống nhất như vậy, kinh thành Huế trở thành nơi hội tụ các giá trị văn hóa của dân tộc, nơi giao thoa và dung hợp nhiều ảnh hưởng văn hóa bên ngoài. Các kiến trúc thành lũy, cung đình Huế đều do bàn tay, khối óc của những người lao động, những thợ thủ công lành nghề của cả nước tạo tác, vật liệu xây dựng cũng là sản vật quý giá huy động từ nhiều địa phương. Chính từ những giá trị đó, cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới từ năm 1993. Năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế lại được UNESCO công nhận là Di sản phi vật thể thế giới. Ngày nay thành phố Huế đã trở thành một thành phố di sản nổi tiếng, một trung tâm du lịch hấp dẫn trong nước và trên thế giới.
Sài Gòn nằm trên vùng đất Nam bộ đã sớm đạt đến trình độ văn minh với nền văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam tồn tại từ đầu CN đến thế kỷ VII. Đây là một nền văn hóa vừa có nguồn gốc bản địa trên nền tảng văn hóa vừa có nguồn gốc bản địa trên nền tảng văn hóa Đồng Nai trước đó, vừa có ảnh hưởng qua lại với văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung và quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới bên ngoài, từ văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc đến Tây Á, Địa Trung Hải. Vương quốc Phù Nam mang tính biển và tính thương mại đậm nét. Trong thời thịnh đạt, Phù Nam kiểm soát con đường mậu dịch hàng hải Á châu từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương qua eo biển Kra (nam Thái Lan) của Đông Nam Á lục địa. Từ thời cổ đại, do điều kiện tự nhiên và vị trí giao thông thuận lợi, cư dân vùng đất Nam bộ đã sớm xây dựng một nền văn minh tính thương mại phát triển cao.
Từ đầu thế kỷ XVIII, cư dân người Việt bắt đầu vào khai phá vùng đồng bằng Nam bộ rộng lớn, phì nhiêu nhưng còn hoang sơ. Năm 1623, trên đất Sài Gòn đã xuất hiện một Sở thu thuế và quản lý dân cư người Việt của chính quyền chúa Nguyễn. Năm 1698, Sài Gòn trở thành một đơn vị hành chính của Đàng Trong với việc thiết lập phủ Tân Bình và dinh Phiên Trấn. Đến giữa thế kỷ XVIII toàn bộ đất Nam bộ đã thống thuộc vào lãnh thổ Đàng Trong dưới quyền quản lý của chúa Nguyễn. Sài Gòn phát triển thành một đô thị cảng sầm uất, một trung tâm kinh tế, văn hóa lớn, một đầu mối giao thông nội địa và khu vực. Trong thời Pháp thuộc, Sài Gòn đi đầu tỏng quá trình đô thị hóa theo mô hình phương Tây.
Trung tâm văn hóa Sài Gòn giữa không gian địa lý - lịch sử - văn hóa Nam bộ là sự giao thoa và dugn hợp của nhiều lớp văn hóa qua các thời kỳ lịch sử từ cư dân tiền sử, cư dân Phù Nam, Khmer, Chăm đến Việt, Hoa… kết hợp với sự tiếp nhận nhiều ảnh hưởng bên ngoài nhưng vẫn từ cội nguồn chung, vẫn giữ bản sắc chung của văn hóa dân tộc với vai trò chi phối của người Việt, mang những sắc thái, phong cách đặc trưng của đất phương Nam. Nhân dân Sài Gòn cùng với Nam bộ luôn luôn gắn bó với vận mạng chung của dân tộc và đã góp phần lớn lao vào sự nghiệp bảo vệ quê hương, bảo vệ đất nước, là “thành đồng” phía Nam của Tổ quốc. Cống hiến đó biểu thị tập trung trong kháng chiến chống Xiêm cuối thế kỷ XVIII, chóng Pháp cuối thế kỷ XIX, trong phong trào chống chủ nghĩa thực dân thời Pháp thuộc rồi kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh biên giới tây nam. Sau khi đất nước thống nhất, Sài Gòn được vinh dự mang tên Hồ Chí Minh và trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa lớn, một thành phố trung tâm kinh tế toàn quốc, một đầu mối giao lưu, mậu dịch quốc tế.
Hà Nội - Huế - Sài Gòn từ trong lịch sử đã trở thành ba trung tâm văn hóa tiêu biểu cho sức sống của cội nguồn, sức mạnh lan tỏa theo hướng giao lưu, dung hợp văn hóa của một quốc gia dân tộc thống nhất gồm nhiều dân tộc trong đó dân tộc Việt Namlaf dân tộc đa số giữ vai trò trung tâm đoàn kết, tập hợp dân tộc. Chính nền tảng văn hóa đó là chất kết dính dân tộc, là mẫu số chung của cộng đồng cư dân Việt Nam, là gốc rễ bền vững của chủ nghĩa yêu nước, của ý chí độc lập, thống nhất quốc gia, của tinh thần đại đoàn kết dân tộc, nhất là khi đứng trước mối đe dọa chung, khi tổ quốc lâm nguy. Phát huy những giá trị văn hóa bền vững, thấm sâu vào máu thịt con người Việt Nam, công việc kết nghĩa của ba thành phố đã góp phần hoànt hành nhiệm vụ lịch sử với đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc.
Kỷ niệm 50 năm kết nghĩa Hà Nội - Huế - Sài Gòn, chúng ta nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa, hiệu quả của việc kết nghĩa và nguồn gốc sâu xa của sức mạnh kết nghĩa đó. Kỷ niệm lại đúng vào năm Hà Nội cùng Huế, thành phố Hồ Chí Minh và cả nước chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Việc kết nghãi đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó và để lại một di sản quý giá là quan hệ đoàn kết, hợp tác và tình nghĩa giữa ba thành phố. Chúng ta mong muốn tinh thần kết nghãi đó cần được tiếp tục duy trì và phát huy trong quan hệ liên kết, hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm vì sự nghiệp xây dựng và phát triển ba trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa quan trọng bậc nhất của đất nước: Hà Nội là thủ đô, là trung tâm chính trị, trung tâm hành chính quốc gia, trung tâm văn hóa, khoa học giáo dục, kinh tế và giao lưu quốc tế; Huế là một trung tâm văn hóa, một thành phố di sản, lễ hội và du lịch nổi tiếng; thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm công nghiệp đầu tàu, một trung tâm văn hóa, khoa học, giáo dục và giao lưu quốc tế lớn. Tinh thần kết nghĩa trong kháng chiến đã tạo nên những mối quan hệ mang tính truyền thống và tình nghĩa đặc biệt, chắc chắn sẽ giúp ba thành phố cùng nhau sát cánh xây dựng thành phố của mình vì lợi ích của mỗi thành phố và vì lợi ích chung xây dựng đất nước Việt Nam đàng hoàng, to đẹp như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.








