Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 04/10/2011 22:07 (GMT+7)

Áp dụng VietGAP trong sản xuất chè

Trong những năm gần đây, tiêu chuẩn VietGAP được nhắc đến trong các lĩnh vực sản xuất rau quả tươi của Việt Nam. VietGAP là chữ viết tắt của Vietnamese Good Agricultural Practices,nghĩa là Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho rau quả tươi của Việt Nam,là những nguyên tắc, trình tự, thủ tục hướng dẫn tổ chức, cá nhân sản xuất, thu hoạch, sơ chế bảo đảm an toàn, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo phúc lợi xã hội, sức khỏe người sản xuất và người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và truy nguyên nguồn gốc sản phẩm. VietGAP cho rau, quả tươi an toàn dựa trên cơ sở ASEAN GAP, EURREGAP/ GLOBALGAP và FRESHCARE, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho rau, quả Việt Nam tham gia thị trường khu vực ASEAN và thế giới, hướng tới sản xuất nông nghiệp bền vững.

VietGAP dựa trên các nguyên tắc phân tích và phòng ngừa các mối nguy. Sử dụng các phương pháp trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM), quản lý mùa vụ tổng hợp (ICM) để đảm bảo sản phẩm cung cấp cho người tiêu dùng là an toàn.

Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu các tiêu chí VietGAP xây dựng để sản xuất chè an toàn được áp dụng.

1.. Chọn địa điểm

- Tùy theo điều kiện cụ thể lựa chọn quy mô hợp lý cho vùng sản xuất;

- Khu sản xuất tập trung cần có: Độ dốc vừa phải, nếu độ dốc quá cao khó khăn cho việc trồng trọt, thu hái và thực hiện biện pháp quản lý tổng hợp, dồi dào nước ngầm, mùa mưa thoát nước nhanh, không bị úng;

- Nguồn nước: Tạo nguồn nước tưới và giữ ẩm trong mùa khô. Nguồn nước và không khí không bị ô nhiễm, xem xét kỹ nguồn và khối lượng nước sử dụng. Chú trọng ngăn ngừa ô nhiễm từ những dòng chảy, ống cống và khí thoát từ ống khói nhà máy.

2. Khí hậu vùng chè

Vùng sản xuất tập trung nhiệt độ không khí trung bình hàng năm từ 18 – 25 0C; độ ẩm không khí trung bình năm trên 80%; lượng mưa trung bình hàng năm trên 1.200 mm.

3. Độ phì nhiêu của đất

- Đất chè cần được duy trì hàm lượng mùn tổng số 2,0% trở lên. Nguồn vật chất hữu cơ cho đất chè trước tiên từ cành lá chè giữ lại hàng năm; từ gốc chè, từ thân lá thực vật không bị nhiễm bẩn; giữ lại cành lá chè đốn; trồng cây che bóng để bổ sung nguồn lá rụng và cắt tỉa hàng năm của cây che bóng.

- Không trồng chè trên những vùng đất có pH > 5,5. Đất có pH cao thì sự sinh trưởng của cây rất kém, lá cây bị héo và rễ cây bị sần sùi.

- Nhất thiết phải trồng chè theo những đường đồng mức, tạo độ nghiêng ra một cách đáng kể, đặc biệt những vùng có độ dốc cao > 20 0cần trồng cỏ Ghi nên hàng đơn, hoặc dứa Cayen, cứ sau 10 hàng chè có thể trồng phụ 1 hàng ở dường đồng mức. Cần đào những rãnh phù sa (toàn bộ hoặc cục bộ) ở bất cứ độ dốc nào để cản nước chảy và giữ nước. Thiết kế và đào những rãnh phù sa phải được để ý và suy xét tới sự an toàn trong quá trình chăm sóc và thu hái.

- Phải chú ý đến việc xây dựng những rãnh thoát nước, cắt ngang dòng chảy, chặn các dòng chảy, làm lưu lượng nước chảy chậm để giảm sự xói mòn. Nên trồng loại cỏ thích hợp dọc theo những rãnh thoát nước để cản nước và xói mòn.

4. Chế độ dinh dưỡng (phân bón)

Hiện nay, để trồng chè có hiệu quả kinh tế, đòi hỏi phải sử dụng phân bón trên tất các loại đất. Về nguyên tắc toàn bộ chất dinh dưỡng đưa vào, kể cả các khoáng vật từ đất và chất hữu cơ, nên tương đương lượng chất dinh dưỡng cây đã lấy đi trong quá trình thu hoạch sản phẩm, cần phải tính toán cả lượng được tổng hợp từ rễ của cây che phủ đất hoặc trồng xen, lượng tồn tại trong cơ thể của cây chè.

Muốn sử dụng dinh dưỡng có hiệu quả cao, đòi hỏi chúng ta phải tính toán liều lượng và tỷ lệ phối hợp các nguyên tố NPK phù hợp với từng loại đất (đất có tầng canh tác dầy, đất dốc…) và khí hậu thời tiết cụ thể của từng vùng.

5. Quản lý dịch hại

Quản lý dịch hại (IPM) là chìa khóa để duy trì sự điều khiển dịch hại, mục đích là áp dụng các biện pháp canh tác, biện pháp sinh học, biện pháp cơ giới, biện pháp hóa học hoặc những kỹ thuật khác trong phòng trừ dịch hại để giảm tới mức thấp nhất sử dụng hóa chất diệt côn trùng. IPM là xem xét cẩn thận tất cả các phương pháp có sẵn và kế tiếp điều khiển dịch hại và đặc biệt chú trọng sử dụng biện pháp sinh học, duy trì cân bằng tự nhiên, điều này ngăn chặn sự phát triển số lượng sâu bệnh không gây thành dịch hại (không bùng phát dịch). Tất nhiên chúng ta cũng có thể sử dụng hóa chất diệt côn trùng và những sự can thiệp khác khi mật độ sâu bệnh hại tới ngưỡng kinh tế. IPM sẽ giảm tối thiểu ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường.

Đảm bảo cho sản phẩm chè vừa an toàn, vừa chất lượng, bảo vệ được thiên địch, bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ sức khỏe con người. Muốn vậy chương trình IPM phải được triển khai một cách nghiêm túc, trong đó các biện pháp: Đốn đúng thời vụl hái đúng kỹ thuật; bón phân hợp lý (sử dụng phân hữu cơ, phân vi sinh, phân hữu cơ sinh học, phân có nguồn gốc hữu cơ kết hợp với từ gốc và tưới nước để cây chè sinh trưởng khỏe, có khả năng chống chịu tốt); điều tra định kỳ để sớm phát hiện đối tượng sâu hại, thời điểm trừ sâu có hiệu quả và điều quan trọng hơn là khi mật độ sâu chưa đến mức phun thuốc thì không sử dụng thuốc hóa học; chỉ dùng thuốc khi số lượng sâu hại vượt quá ngưỡng phòng trừ, khi mật độ sâu hại vượt quá ngưỡng phòng trừ, khi mật độ sâu hại chưa đến mức bùng phát dịch chỉ nên dùng thuốc có nguồn gốc thảo mộc (hiện nay có một số thuốc thảo mộc mới trừ sâu rất có hiệu quả như: SH01, Sukupi…).

6. Lưu ý cơ cấu giống chè và việc mở rộng diện tích

Mọi quy hoạch mở rộng diện tích đất trồng chè đều cần có một sự đánh giá đầy đủ các tác động của môi trường sống và đưa ra các khuyến cáo về giải pháp kỹ thuật canh tác hợp lý, tuyệt đối không nên mở rộng vào trong rừng nguyên sinh. Phát triển vùng chè cần tính đến tăng cường bảo vệ môi trường xung quanh khu vực sản xuất.

7. Đốn hái, bảo quản chè nguyên liệu

Nên áp dụng qui trình đốn 3 năm đối với vườn chè đã sản xuất kinh doanh nhiều năm. Năm thứ nhất đốn lửng cách mặt đất 55cm, năm thứ 2 đốn cao 60 cm, năm thứ 3 đốn cao 65 cm so với mặt đất, sau 3 năm lại trở lại đốn lửng sát vết đốn của chu kỳ đầu tiên.

Áp dụng kỹ thuật hái theo khống chế chiều cao vết hái của vụ chè xuân 10cm, có nghĩa là vụ chè hái đầu tiên trong năm chỉ hái những búp có chiều cao trên 10 cm tính từ vết đốn, những lần hái sau phẩm cấp theo yêu cầu chế biến các sản phẩm chè. Khi hái chè (bằng tay hoặc máy) nên đựng trong các giỏ hoặc sọt chắc, nhẹ, không có mùi lạ.

8. Năng lượng trong sản xuất chè

Khuyến khích sử dụng các vật liệu có khả năng tái sản xuất được, giảm thiểu nhiên liệu gây ô nhiễm. Hiệu quả của việc sử dụng nguyên liệu có khả năng tái sản xuất là: Sử dụng củi trong chế biến để giảm thiểu nhiên liệu gas, xăng, dầu… Tuy nhiên cần chú ý nguồn gốc của củi, không được khai thác bừa bãi; chú trọng nguyên liệu sinh học là nguồn bổ sung; hạn chế sử dụng than trong chế biến; những cây chè đốn cần phải để tủ gốc cho chè, không bao giờ được sử dụng làm mục đích khác.

9. Nguồn nước

Nước tưới: Sử dụng tưới nước nhỏ giọt tốt hơn là dùng bình để tưới (tiết kiệm hơn); không sử dụng nước từ những vùng sản xuất công nghiệp, nước thải nhà máy vì nó có thể đem lại các chất độc hại hoặc gây ô nhiễm.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.