Áp dụng triệt để các quy định của quốc tế trong bảo vệ môi trường biển phía Nam
Cơ sở khoa học để thực hiện
Trước sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp hàng hải và đóng mới, sửa chữa tàu, công trình dầu khí biển ở các tỉnh ven biển phía Nam, ông Phạm Hải Bằng, Cục Đăng kiểm Việt Nam cho rằng: Cần tăng cường và áp dụng triệt để các điều ước quốc tế của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) trong công tác bảo vệ môi trường biển. Trước hết nên áp dụng Công ước quốc tế năm 1973 về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra, được sửa đổi bởi Nghị định thư năm 1978 (MARPOL 73/78). Đây là một trong những công ước quan trọng nhất của IMO về BVMT biển trong hoạt động hàng hải. Theo công ước này, tàu phải được kiểm tra và chứng nhận trong quá trình đóng mới và khai thác để đảm bảo tàu và các máy móc, trang thiết bị liên quan đáp ứng thỏa mãn các quy định về BVMT. Tại cảng biển, phải có các phương tiện tiếp nhận và xử lý các loại chất thải gây ô nhiễm từ tàu (dầu thải, hóa chất, cặn hàng độc hại, nước thải, rác thải, các loại khí thải). Phải thiết lập và duy trì sẵn sàng các nguồn lực đầy đủ tại cảng để ứng phó các sự cố ô nhiễm tràn dầu và hóa chất lỏng chở bằng tàu. Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền của cảng phải tiến hành công tác thanh tra các tàu đến cảng để xác nhận việc tuân thủ công ước.
Vấn đề ảnh hưởng của các sinh vật độc hại có trong nước dằn của tàu đã được IMO đề cập đến từ năm 1988. Việc di chuyển các loài sinh vật biển từ vùng biển này sang vùng biển khác thông qua nước dằn tàu được xem là nguy cơ lớn đối với môi trường biển toàn cầu. Để làm giảm thiểu và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển do việc vận chuyển các mầm bệnh và thủy sinh vật có hại thông qua nước dằn, IMO đã thông qua Công ước quốc tế về kiểm soát, quản lý nước dằn và cặn nước dằn (BWM 2004), Công ước dự kiến sẽ có hiệu lực trong năm 2012.
Theo quy định của Công ước BWM 2004, tàu phải trang bị kế hoạch trao đổi nước dằn hoặc hệ thống xử lý nước dằn để tránh việc nước dằn trở thành phương tiện di chuyển các loài thủy sinh giữa các khu vực trên thế giới. Tàu chỉ được phép xả nước dằn chưa qua xử lý tại các khu vực quy định. Tàu phải được kiểm tra và chứng nhận trong quá trình đóng mới và khai thác để bảo đảm việc tuân thủ các quy định về quản lý nước dằn. Tại nơi sửa chữa tàu phải có phương tiện tiếp nhận và xử lý cặn nước dằn. Cơ quan có thẩm quyền của cảng phải tiến hành công tác thanh tra các tàu đến cảng để xác nhận việc tuân thủ Công ước của các tàu này.
Một số quốc gia như Australia, Mỹ, Brazil, Panama, Singapore … yêu cầu bắt buộc áp dụng Công ước BWM 2004 đối với các tàu ghé vào cảng của họ. Việc Công ước BWM 2004 có hiệu lực trong năm 2012 là một thách thức rất lớn đối với công nghiệp hàng hải toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Do đó, ngay từ bây giờ Việt Nam cần phải có sự chuẩn bị cần thiết để triển khai áp dụng Công ước khi có hiệu lực.
Áp dụng triệt để các quy định của quốc tế
Là nơi tập trung nhiều hoạt động cảng biển, tàu vận tải biển, đóng và sửa chữa tàu biển, công trình dầu khí biển, môi trường biển ở các vùng biển phía Nam luôn chịu tác đông hủy hoại rất lớn từ các hoạt động này. Các nguồn gây ô nhiễm biển từ các hoạt động hàng hải và đóng, sửa chữa tàu biển, công trình dầu khí biển hiện nay rất đa dạng và phức tạp: Ô nhiễm do dầu; các loại hóa chất lỏng chở trên tàu; các loại hàng độc hại, nguy hiểm được vận chuyển bằng tàu; rác thải, nước thải từ tàu; ô nhiễm không khí do các chất phát thải từ tàu; sơn chống hà sử dụng cho thân tàu; các vật liệu độc hại sử dụng đóng, sửa chữa tàu; sự di chuyển của các loài thủy sinh thông qua nước dằn tàu; các hoạt động cắt phá tàu cũ…
Tuy nhiên, trong việc thực hiện Công ước MARPOL 73/78 đang còn tồn tại các vấn đề bất cập như: Chưa có đủ các phương tiện tiếp nhận và xử lý các loại chất thải gây ô nhiễm từ tàu. Nguồn lực ứng phó các sự cố ô nhiễm tràn dầu và hóa chất lỏng chở bằng tàu còn hạn chế. Mặt khác, Việt Nam chưa tham gia các phụ lục về ô nhiễm do các loại hàng độc hại, nguy hiểm được vận chuyển bằng tàu, ô nhiễm do nước thải, ô nhiễm do rác thải và ô nhiễm do khí thải từ tàu của Công ước, do vậy các cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ hành lang pháp lý để thực hiện công tác thanh tra các tàu nước ngoài đến cảng.
Để đẩy mạnh công tác BVMT biển, chúng ta cần đẩy mạnh việc nghiên cứu và sớm gia nhập các điều ước quốc tế quan trong của IMO; khảo sát, nghiên cứu lập, kế hoạch xây dựng các cơ sở tiếp nhận, xử lý các nguồn gây ô nhiễm từ tàu, tại các cảng biển; xây dựng mới và trang bị bổ sung cơ sở vật chất, phương tiện và nhân lực cho các trung tâm ứng cứu ô nhiễm biển của quốc gia và khu vực, nhằm giải quyết nhanh và làm giảm thiểu hậu quả của các vụ ô nhiễm môi trường biển do tàu biển và công trình biển gây ra. Các cơ quan chức năng như: Cảnh sát biển, cảnh sát đường thủy nội địa, cảnh sát môi trường, cảng vụ hàng hải, cảng vụ đường thủy nội địa… cần được tăng cường đầu tư, trang bị bổ sung các nguồn lực nhằm đẩy mạnh công tác tuần tra, kiểm soát để phát hiện kịp thời các trường hợp cố tình gây ô nhiễm môi trường biển của các phương tiện, bao gồm cả các phương tiện nước ngoài hoạt động trong vùng nước Việt Nam và có biện pháp xử lý, phù hợp với pháp luật quốc gia và quốc tế.
Nâng cao năng lực quản lý
Sự cố tràn dầu từ biển vào duyên hải miền Trung và miền Nam cũng không phải là mới và bất ngờ, mà là vấn đề đã biết từ hơn 10 năm về trước, nhưng chưa được quan tâm theo dõi, nghiên cứu nghiêm túc để tìm biện pháp đề phòng, chế ngự, xử lý… Nhân loại tiến ra biển và đại dương, các quốc gia bành trướng ra biển, hoạt động hàng hải và kinh tế biển ngày càng tăng, ô nhiễm môi trường, môi sinh biển là điều tất yếu.
Trong khi bộ máy quản lý về môi trường biển của nước ta từ cấp vĩ mô đến vi mô không hề thiếu, nước ta còn thiếu kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến, thiếu phương tiện, thiết bị máy móc hiện đại như tàu chuyên dùng khảo sát, nghiên cứu, vệ tinh phát hiện ô nhiễm trên biển cùng hệ thống các trạm phân tích, xử lý thông tin…
Luật pháp quốc tế, quốc gia tuy nhiều, khoa học công nghệ phát hiện và xử lý ô nhiễm ngày càng hiện đại và tinh vi nhưng vẫn chưa đáp ứng và chế ngự được tai họa này của thời đại, chỉ còn hy vọng vào con người đó chính là khâu nâng cao năng lực của các tổ chức quản lý và BVMT biển mà ở Việt Nam đang trở thành vấn đề cấp thiết.
Cần một tầm nhìn xa hơn
Nhìn lại lịch sử tiến hóa của loài người ta thấy rằng thế hệ này ra đi, thế hệ khác kế tục, nhân loại vẫn tăng trưởng, văn minh trên trái đất ngày càng phát triển cao. Con người tuy có biến động theo chu kỳ tuổi tác, nhưng thế giới và quốc gia vẫn tồn tại gắn kết với thiên nhiên, âu dó cũng là một trong những quy luật sinh tồn. Điều đáng lưu ý là khi các dân tộc, các nước càng tiến bộ, càng văn minh thì thái
độ và cách nhìn đối với môi trường, môi sinh chung quanh càng nghiêm túc và trân trọng bởi họ ý thức được rằng việc bảo vệ gìn giữ môi trường, môi sinh là nghĩa vụ sống còn của con người.
Nước ta đang thực hiện chiến lược phát triển biển đến năm 2020, phải nâng tầm nhìn về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển không chỉ 10 năm hay 20 năm mà cả một thế hệ sau./.








