Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 27/02/2012 21:44 (GMT+7)

An ninh lương thực Việt Nam sau 5 năm nhìn lại

Để tìm giải pháp cho vấn đề an ninh lương thực nước ta trong giai đoạn 2011-2015, trước hết cần nhìn nhận đúng mức thực trạng và những bài học rút ra về an ninh lương thực 5 năm 2006-2010. Thực trạng đó phải được đánh giá trên 3 mặt có quan hệ mật thiết với nhau là: sản xuất lương thực, dân số và xuất khẩu lương thực.

I. Thực trạng thời kỳ 2006-2010, Những kết quả đạt được

Thời kỳ 2006-2010, dưới tác động của các cơ chế, chính sách trong đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới theo cam kết WTO, an ninh lương thực quốc gia đã có bước chuyển biến tích cực.

Về sản xuất lương thực. Dù gặp nhiều khó khăn do tác động tiêu cực của thị trường thế giới về giá cả phân bón, thuốc trừ sâu và thiên tai trong nước diễn ra bất lợi nhưng sản xuất lương thực cả nước vẫn phát triển cả về sản lượng lẫn chất lượng. Sản lượng lương thực từ 39,7 triệu tấn năm 2006 tăng lên 44,6 triệu tấn năm 2010, bình quân mỗi năm tăng thêm 900 nghìn tấn. Như vậy nước ta đã hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch sản xuất lương thực năm 2010 trước 2 năm theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 2006-2010. Nét mới trong sản xuất lương thực trong hơn 5 năm qua là sản lượng tăng nhanh và ổn định năm sau cao hơn năm trước, dù thiên tai năm nào cũng xảy ra trên diện rộng.

Trong sản xuất lương thực, sản xuất lúa tăng nhanh và ổn định cả về diện tích và năng suất. Nếu năm 2006 cả nước mới gieo cấy 7,3 triệu ha thì năm 2010 đã đã tăng lên 7,5 triệu ha do tăng vụ. Từ năm 2006, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng hiệu quả kinh tế trên 1 đơn vị diện tích, nên một bộ phận diện tích cấy lúa vụ mùa không ổn định, năng suất thấp, được chuyển sang trồng lúa Đông Xuân và Hè Thu năng suất cao hơn. Diện tích lúa Đông Xuân từ 2,99 triệu ha năm 2006 lên 3,1 triệu ha năm 2010, diện tích lúa Hè Thu từ 2,31 triệu ha tăng lên trên 2,43 triệu ha. Diện tích lúa mùa có năng suất thấp, giảm từ 2,1 triệu ha năm. Sự chuyển dịch này đã tạo điều kiện để thâm canh tăng năng suất lúa và đa dạng hóa sản phẩm lúa gạo, tăng chất lượng lúa gạo từng vụ và cả năm.

Năng suất lúa từ 48,9 tạ/ha năm 2006 lên 53,2 tạ/ha năm 2010, bình quân mỗi năm tăng trên 1 tạ/ha là mức tăng năng suất lúa cao so với các thời kỳ trước. Kết hợp cả yếu tố tăng diện tích và tăng năng suất đã làm tăng sản lượng lúa cả nước với tốc độ khá nhanh, từ 35,8 triệu tấn (2006) lên 35,9 triệu tấn (2007), 38,7 triệu tấn (2008), 38,9 triệu tấn (2009) và 40 triệu tấn (2010). Tuy nhiên, tăng năng suất vẫn là yếu tố quan trọng làm tăng sản lượng lúa của Việt Nam với mức bình quân mỗi năm tăng thêm 1,0 triệu tấn và năm sau liên tiếp cao hơn năm trước là xu thế hiếm thấy trong lịch sử sản xuất lúa của nước ta và thế giới.

Sản lượng lúa Đông Xuân có chất lượng cao tăng từ 17,6 triệu tấn năm 2006 lên 19,2 triệu tấn năm 2010, đã góp phần tăng chất lượng gạo xuất khẩu của Việt nam trên thị trường thế giới.

Cùng với lúa, sản xuất ngô phát triển khá ổn định, tăng trưởng nhanh. Năm 2006, diện tích ngô cả nước mới đạt 1033 nghìn ha, năng suất 37,3 tạ/ha và sản lượng 3,85 triệu tấn, thì đến năm 2010 đạt 1131 nghìn ha, 41 tạ/ha và 4,6 triệu tấn. Ngô là cây màu lương thực chủ yếu hiện nay và là nguồn lương thực bổ sung quan trọng của dân cư miền núi và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi.

Có thể thấy rõ, sản xuất lương thực 5 năm qua đã có nhiều nét mới là:

Thứ nhất, hoàn thiện các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn gắn với thị trường xuất khẩu. Đó là vùng lúa hàng hóa ĐBSCL, ĐBSH; vùng sản xuất ngô Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, ngô vụ Đông ĐBSH, Bắc Trung Bộ. Các vùng sản xuất hàng hóa lớn tập trung này đã cung cấp lúa gạo hàng hóa và xuất khẩu cho cả nước trong những năm qua, là dấu hiệu của nền nông nghiệp hàng hóa lớn đã và đang hình thành, khác hẳn các thời kỳ trước.

Thứ hai, áp dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất lương thực hàng hóa gắn với xuất khẩu. Trong đó nhiều giống lúa, ngô có năng suất cao đã được đưa vào sản xuất và các công nghệ tưới tiêu, làm đất, phân bón, bảo quản sau thu hoạch cũng được mở rộng hơn (tỷ lệ đất lúa được tưới tiêu của Việt Nam cao hơn nhiều so với Thái Lan và Philipin). Nhờ vậy năng suất lúa của Việt Nam năm 2009-2010 đã cao hơn của Thái Lan, Philipin và Inđônêxia.

Về dân số, đến năm 2009 và 2010, tốc độ tăng tự nhiên của dân số cả nước chỉ còn dưới 1,2%, một số vùng chỉ còn dưới 1,15%/năm như đồng bằng sông Hồng, duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, một số vùng khác vẫn còn cao hơn như: Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Tây Bắc. Tình trạng sinh con thứ ba những năm 2008-2010 đã giảm ở nhiều vùng và địa phương, nhất là khu vực thành thị và CBCNVC Nhà nước. Cùng với giảm tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số, cơ cấu tiêu dùng lương thực trong dân cư cũng đã có chuyển biến theo hướng giảm tỷ lệ lương thực trong cơ cấu bữa ăn hộ gia đình, tuy mức độ giảm chưa nhiều. Do tác động của hai yếu tố trên nên an ninh lương thực quốc gia 5 năm 2006-2010 nhìn chung ổn định. Xu hướng sản lượng lương thực tăng nhanh hơn tốc độ tăng tự nhiên của dân số thể hiện rõ nét, lương thực bình quân nhân khẩu năm sau cao hơn năm trước.

Bảng 1: Dân số và sản lượng lương thực Việt Nam năm 2006-2010

Đơn vị tính

2006

2007

2008

2009

2010

So sánh 2010 với 2006 (%)

Dân số

Triệu người

83,8

84,2

85,1

86,0

87,1

104,6

SL lương thực

Triệu tấn

39,7

40,0

43,33

43,32

44,6

112,4

SL lương thực b/q nhân khẩu

Kg

476,6

477,9

508,7

503,7

512

107,3

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2009, Báo cáo KTXH-TCTK 2010

Trong 5 năm 2006-2010, bình quân mỗi năm sản lượng lương thực tăng 3%, trong khi tốc độ tăng dân số là 1,15%, nên lương thực bình quân nhân khẩu tăng từ 476,8 kg năm 2006 lên 512 kg năm 2010. Năm 2010 so với năm 2006, sản lượng lương thực tăng thêm 3,6 triệu tấn, trong khi dân số tăng thêm 3,8 triệu người, nên sản lượng lương thực bình quân nhân khẩu có xu hướng tăng dần và từ năm 2008, 2009 và 2010 đều đạt trên 500 kg và đánh dấu bước chuyển mới rất quan trọng trong giải quyết tốt an ninh lương thực ở nước ta. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế và dinh dưỡng, trong điều kiện Việt Nam với mức bình quân mỗi người 300 kg lương thực trong 1 năm là đủ đảm bảo an toàn lương thực ở mức tối thiểu.

Sản phẩm lương thực 5 năm qua còn đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản trong nước. Sản lượng ngô tăng nhanh đã góp phần giảm lượng ngô nhập khẩu để chế biến thức ăn chăn nuôi và cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của đồng bào vùng cao.

Về xuất khẩu lương thực, từ năm 2006 đến năm 2010, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng nhanh và đạt mức cao. Năm 2006 đạt 4,64 triệu tấn, năm 2007 đạt 4,58 triệu tấn, năm 2008 đạt 4,74 triệu tấn, năm 2009 đạt 5,95 triệu tấn và năm 2010 đạt 6,8 triệu tấn. Tính chung 5 năm 2006-2010, Việt nam đã xuất khẩu 26,71 triệu tấn gạo, bình quân đạt 5,34 triệu tấn/năm. Không chỉ tăng sản lượng mà còn tăng cả chất lượng nên giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng nhanh. Năm 2006 đạt 274,9 USD/tấn, năm 2009 đạt 466,8 USD/tấn và năm 2010 đạt 470 USD/tấn. Từ năm 2006-2010, Việt Nam vẫn liên tục giữ vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, dù không phải thời tiết năm nào cũng thuận lợi cho sản xuất lương thực.

Những hạn chế và bất cập

Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế, bất cập tác động đến bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đó là:

- Trong sản xuất lương thực diện tích đất trồng lúa bình quân đầu người quá ít lại giảm dần, trong khi đơn vị sản xuất lương thực chủ yếu là hộ gia đình nông dân thì ruộng dất manh mún, nên rất khó cho việc cơ giới hóa sản xuất lương thực. Phương thức sản xuất vẫn lấy tăng sản lượng là mục tiêu chủ yếu, nên chưa quan tâm đúng mức tới chất lượng lương thực. Công nghệ sau thu hoạch, bảo quản và sơ chế, chế biến lương thực còn lạc hậu, song chậm được đổi mới. Các hoạt động dịch vụ cung ứng vật tư, tưới tiêu, thu gom lương thực hàng hóa do HTX, tổ kinh tế hợp tác và các doanh nghiệp tư nhân, thương lái thực hiện, trong khi đó, các chính sách và cơ chế quản lý các tổ chức dịch vụ lại chưa hoàn thiện, nên người nông dân vẫn chịu thiệt thòi nhiều mặt. Tình trạng ép cấp, ép giá lúa, ngô hàng hóa vẫn còn phổ biến.

- Xu hướng độc canh lúa ở nhiều vùng và địa phương còn nặng nề, chuyển dịch cơ cấu sản xuất còn tự phát, manh mún, hiệu quả thấp. Vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long chiếm hơn 50% sản lượng lúa cả nước và 90% sản lượng gạo xuất khẩu nhưng xu hướng độc canh lúa vẫn rất nặng nề. Biểu hiện cụ thể là những năm 2008-2011 do giá lúa tăng cao nên nông dân trong vùng đã mở rộng diện tích lúa Thu Đông (3 vụ) để tăng sản lượng. Việc mở rộng diện tích lúa vụ 3 ở vùng đồng bằng sông Cửu Long tuy có lợi trước mắt nhưng về lâu dài còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn như đất lúa bị khai thác quá mức, đất không được nghỉ, đất màu mỡ sẽ giảm, nhất là những năm không có lũ (như năm 2010). Do làm 3 vụ lúa trong năm nên khả năng sâu bệnh lây lan từ vụ này sang vụ khác là rất lớn, trong khi đó giá phân bón, thuốc trừ sâu tăng cao, làm giảm hiệu quả cây lúa. Không chỉ ĐBSCL mà cả các tỉnh duyên hải Trung Nam bộ cũng đang có xu hướng tái sản xuất lúa vụ 3 để tăng sản lượng, mặc dù trước đây Bộ NN&PTNT đã có chủ trương không mở rộng diện tích lúa vụ 3. Trong khi đó diện tích đất canh tác lúa giảm nhanh do đô thị hóa và công nghiệp hóa. Do vậy khả năng tăng diện tích gieo cấy lúa là rất hạn chế. Năng suất lúa các vụ ở hầu hết các vùng, các địa phương đã đến mức trần, kể cả đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL nên khả năng tăng thêm là rất khó. Sản xuất ngô có nhiều tiềm năng nhưng tăng rất chậm, nhất là ngô vụ đông ở vùng đồng bằng sông Hồng. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí đầu vào tăng cao trong khi giá cả đầu ra không ổn định.

- Về dân số, tuy tốc độ tăng tự nhiên của dân số đã giảm, nhưng vẫn còn cao và chưa ổn định. Bình quân mỗi năm, dân số tăng lên 1,15 triệu người nên nhu cầu lương thực đảm bảo cho cho tiêu dùng của dân cư tiếp tục tăng nhanh. Lượng lương thực tiêu dùng trong bữa ăn của dân cư còn cao nhưng giảm chậm nhất là khu vực nông thôn: năm 2008 là 11,9 kg/người/tháng so với 12,4 kg năm 2006, trong đó dân cư nông thôn là 12,8 kg so với 13,3 kg. Tốc độ giảm tỷ lệ sinh chưa năm nào đạt kế hoạch, nên sức ép về dân số vẫn cao. Dân số tăng không chỉ kéo theo tăng cầu lương thực mà còn tăng diện tích đất ở do san tách hộ ở nông thôn, làm giảm diện tích đất lúa.

- Về xuất, nhập khẩu lương thực, là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, nhưng đến năm 2010 Việt Nam vẫn chưa có chiến lược xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo, nhập khẩu lúa mì là yếu tố liên quan trực tiếp đến cân đối lương thực trong nước nhưng chưa có chiến lược, kế hoạch rõ ràng nên việc ký kết các hợp đồng xuất khẩu hàng năm còn mang tính tự phát, hiệu quả thấp. Ví như năm 2011, trong khi giá cả lương thực trong nước và thế giới tăng cao, nhưng các hợp đồng xuất khẩu gạo của Việt Nam lại không tăng tương ứng, giá vẫn thấp. Theo báo cáo của cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Philipin, ngày 24/3/2011, thông qua hợp đồng Chính phủ, có 200 ngàn tấn được bán với giá 480 USD/tấn bao gồm cả phí vận chuyển (chỉ tăng 10 USD so năm 2010). Đây là giá quá rẻ theo nhận định của cơ quan Lương thực quốc gia Philipin (NFA), vì nếu cộng các chi phí (theo họ tính) thì về tới cảng giá phải là 550 USD/tấn. Theo một số doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo, trong số 1,5 triệu tấn gạo đã ký hợp đồng giao từ tháng 4 trở đi, có tới hơn nửa triệu tấn bán thương mại với giá 430-450 USD/tấn (loại 5% tấm), nhiều trường hợp bán gạo 25% dưới mức 400 USD/tấn. So với giá nguyên liệu tại mạn tàu từ 9.600-9.700 đồng/kg, thì doanh nghiệp chịu lỗ mỗi tấn từ 20-50 USD. Còn với giá hiện tại, thì mỗi tấn xuất đi, doanh nghiệp mất lời khoảng 40 USD. Đó là điều bất hợp lý, dẫn đến hiệu quả thấp. Vấn đề nhập khẩu lúa mì, bột mì, thức ăn gia súc cũng chưa được xác định trong chiến lược và kế hoạch hàng năm (năm 2009 nhập khẩu 345,3 triệu USD lúa mì, chưa tính bột mì và gần 1 tỷ USD nguyên liệu thức ăn gia súc).

Nhu cầu lương thực, nhất là ngô cho chế biến thức ăn chăn nuôi cũng tăng nhanh trong khi sản lượng ngô sản xuất vẫn tăng chậm.

II. Giải pháp:

Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong bối cảnh nguy cơ thiếu lương thực thế giới và giá cả lương thực tăng cao hiện nay cần có hệ thống các giải pháp đồng bộ và có tính khả thi. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu liên quan đến 3 yếu tố: Sản xuất lương thực, quy mô dân số và xuất khẩu lương thực của Việt Nam giai đoạn 2011-2015, tầm nhìn 2020.

- Chuyển nhanh sang hướng sản xuất lương thực bền vững. Theo hướng này, từ nay đến năm 2015 cần ổn định diện tích canh tác lúa ở mức 4 triệu ha, gieo trồng 2 vụ ăn chắc trong năm, đồng thời mở rộng diện tích lúa vụ 3 ở ĐBSCL, duyên hải Nam Trung bộ một cách hợp lý trên cơ sở hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất lúa, phòng trừ sâu bệnh. Mở rộng diện tích vụ đông ở ĐBSH và các tỉnh phía Bắc lên 1 triệu ha. Phát triển và nâng cấp các công trình thủy lợi để nâng cao khả năng thâm canh tăng năng suất và chống đỡ có hiệu quả bão lũ, hạn hán, tiến tới thực hiện tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích gieo trồng lúa, ngô ở tất cả các vùng, các vụ. Áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, chế biến, bảo quản lương thực để giảm hao hụt trong và sau thu hoạch lương thực, nhất là ở các vùng trọng điểm.

- Đổi mới chính sách dân số theo hướng giảm dần tốc độ tăng tự nhiên của dân số tiến tới mục tiêu ổn định dân số, trước hết là ở khu vực nông thôn. Đầu tư thỏa đáng cho các Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm ở nông thôn để tăng thu nhập và cải thiện đời sống. Cải tiến bữa ăn của dân cư nông thôn theo hướng tăng thực phẩm khác để giảm lương thực tiêu dùng trong bữa ăn.

- Xây dựng chiến lược xuất khẩu và nhập khẩu lương thực. An ninh lương thực quốc gia nhất thiết phải gắn với thị trường lương thực thế giới, nhất là thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập theo cam kết WTO. Vì vậy định hướng chiến lược xuất khẩu gạo của Việt Nam thời kỳ 2011-2020 cần nhằm mục tiêu tăng chất lượng gạo và hiệu quả thay vì tăng sản lượng như những năm qua. Theo hướng đó, những năm tới lượng gạo xuất khẩu hàng hóa nên ổn định ở mức hợp lý (khoảng 6 triệu tấn), đồng thời tăng chất lượng gạo, giảm chi phí để tăng giá gạo và tăng hiệu quả kinh tế xuất khẩu gạo. Mở rộng hình thức liên kết giữa Việt Nam với các nước xuất khẩu gạo để ổn định thị trường và giá cả lương thực trong mọi điều kiện thời tiết. Vấn đề nhập khẩu lương thực, chủ yếu là lúa mì, bột mì, thức ăn gia súc cũng cần được nghiên cứu hoàn thiện theo hướng đảm bảo hiệu quả cao trong chiến lược an ninh lương thực quốc gia hiện nay./.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.