Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 09/07/2007 23:27 (GMT+7)

20.000 tiến sĩ “xịn”, tại sao không?

Trong cuộc đối thoại gần đây để tìm nguồn tài trợ quốc tế, Bộ GD – ĐT đã cưa đôi con số 20.000 (mỗi năm 2.000), gần một nửa (từ 800 đến 1.000 hàng năm) được đào tạo trong nước, số còn lại (1.000) gửi đi nước ngoài.

Bộ đặt ra yêu cầu mỗi TS trước khi trình luận án, phải gửi đăng một bài báo ở các tạp chí quốc tế. Nhiều ý kiến cho rằng chủ trương này rất khó khả thi. Khó thật, nhưng không vì khó mà nhân nhượng. Bởi bằng TS có thể “mua” được, nhưng không ai có thể “mua” các tạp chí khoa học có uy tín để đăng một bài báo mà các phản biện ẩn danh và toà soạn cho rằng thiếu chất lượng.

Còn về chuyện khả thi, ta hãy chịu khó tính toán.

Cần 500 thầy hướng dẫn

Muốn hàng năm cho ra lò khoảng 800 – 1.000 TS nội địa, cần có ít nhất 500 thầy hướng dẫn. Thầy phải làm gương, nghĩa là mỗi người thầy phải có thành tích từng sản sinh ra hàng năm ít nhất một bài báo trên các tạp chí quốc tế.

Hiện nay, có khoảng 7.000 tạp chí như vậy, thuộc 21 ngành khoa học tự nhiên, xã hội, và nghệ thuật nhân văn được cập nhật trong các cơ sở dữ liệu của Viện Thông tin Khoa học Mỹ ISI.

Vậy, chỉ riêng yêu cầu làm luận án TS để có đội ngũ giảng viên cho các trường ĐH, mỗi năm Việt Nam sẽ công bố ít nhất 500 bài báo quốc tế làm từ các cơ sở trong nước. Con số này quá lớn so với khả năng hiện nay.

Theo ISI, số bài báo quốc tế gửi đi từ địa chỉ Việt Nam trung bình trong mười năm qua là 80 bài/năm. Riêng năm 2006 là 82 bài. Số bài hợp tác với nước ngoài thường gấp 4 – 5 lần, nhưng chủ yếu được thực hiện ở các nước tiên tiến.

Trong khi đó, một mình ĐH Chulalongkorn của người láng giềng Thái Lan, năm vừa qua, đã gửi đăng 332 bài làm ngay tại trường ĐH này hoặc hợp tác với các cơ sở khác trong nước mà không có đồng tác giả từ các cơ sở nước ngoài.

Trong mười năm gần đây, số bài báo quốc tế loại này của ĐH Chulalongkorn tăng trưởng ổn định với tốc độ 25%/năm, nên họ sẽ vượt con số 500 bài ngay trong năm 2008 sắp tới, mục tiêu mà các trường ĐH và viện nghiên cứu của cả nước đang phấn đấu.

Cứ phải lý giải tại sao ta lại tụt hậu xa như thế mới sớm nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Mà người Thái làm được, người Việt tại sao không?

Điểm qua các bài báo quốc tế tại Việt Nam , sẽ thấy tại các trường ĐH và Viện nghiên cứu của ta không quá 50 nhà khoa học từng chủ trì ( corrospongding author) nhiều hơn một nửa bài báo quốc tế mỗi năm. Quá một nửa trong số này là những người làm Tóan và Vật lý lý thuyết.

Số phòng thí nghiệm có trang thiết bị hiện đại từng độc lập sản sinh ra các bài báo quốc tế không quá 20 – 30. Trên thực tế, còn một số nhà khoa học và phòng thí nghiệm khác có tiềm nưng công bố các bài báo quốc tế mà hiện nay đang còn “ở ẩn”, hoặc sắp sủa buông tay gác kiếm. Nhưng nếu động viên hết, toàn bộ vẫn không quá 100 nhà khoa học và 50 phòng thì nghiệm. Nội lực của ta còn quá yếu!

Hai lối thoát

Vậy lối thoát duy nhất là du nhập khoa học. Ta vốn quen du nhập công nghệ, mà khoa học lại phải đi trước công nghệ. Một đất nước thiếu nền khoa học nghiêm chỉnh sẽ không thể có công nghệ, thậm chí là công nghệ ngoại nhập.

Khoa học của ta lại chỉ mới bắt đầu gần đây, sau thế giới ba bốn trăm năm, nên du nhập khoa học cũng là lẽ đương nhiên, cần được đặt ra như một chủ trương lớn của Nhà nước. Mỗi năm gửi 1.000 giảng viên ĐH đi làm TS ở nước ngoài chính là một cách du nhập khoa học.

Con đường thứ hai, cơ bản hơn nhiều, là mời những chuyên gia có trình độ cao từ nước ngoài đến xây dựng, nâng cấp và hướng dẫn nghiên cứu khoa học tại các cơ sở trong nước, điều mà đây đó lâu nay đã tiến hành, nhưng chưa thành một chủ trương của Nhà nước.

Hiện nay, ta có một số phòng thí nghiệm được trang bị khá, có khả năng làm một số dịch vụ khoa học, nhưng chưa đồng bộ, chỉ mới khai thác một phần nhỏ công suất, và chưa sản sinh ra được những công trình nghiên cứu tầm quốc tế.

Xét cho cùng là do trình độ khoa học còn hạn chế, lại phải chạy theo các món mỳ ăn liền để giải quyết cuộc sống, để khẳng định vị thế và thương hiệu trong một môi trường khoa học tù mù, thiếu chuẩn mực. Vả lại, còn rất nhiều ngành KHCN ta chưa hề có cơ sở nghiên cứu và đầu đàn.

Cần đầu tư 125 triệu USD hàng năm

Do đó, cần khởi động ngay một đề án mười năm nhằm nâng cấp và xây dựng mới khoảng 200 bộ môn ở các trường ĐH đủ trang thiết bị hiện đại và hàng năm mời 200 chuyên gia nước ngoài đến làm việc.

Chi phí trung bình cho mỗi cơ sở vào khoảng 5 triệu USD, bao gồm đầu tư trang thiết bị và vận hành trong 10 năm. Con số này có thể thăng giáng từ 2 triệu đến 20 triệu USD tuỳ trường hợp cụ thể, nhưng tổng kinh phí sẽ là 5 triệu USD x 200= 1 tỷ USD, nghĩa là 100USD/năm.

Tính thêm chi phí hợp tác quốc tế và thuê chuyên gia, trong số này có những nhà khoa học gốc Việt đang sinh sống ở nước ngoài, sẽ lên đến 125 triệu USD/năm.

Thiết nghĩ, đây chính là nơi biến chủ trương xem người Việt sinh sống ở nước ngoài như một bộ phận của Tổ quốc thành hiện thực (xét cả hai phía), chứ không phải chỉ mới là những lời hô hào chung chung như bấy lâu nay.

4 lý do khả thi

Thoạt nhìn con số 125 triệu USD/năm, chắc ai đó sẽ thốt lên: Sao mà tốn kém vậy! Nhưng bình tĩnh xem xét sẽ thấy, con số này rất mực phải chăng và khiêm tốn.

Thứ nhất,nên nhớ rằng kinh phí để đào tạo 1.000 TS ở nước ngoài cũng lên đến 70 triệu USD/năm mà tiền của đó không để lại dấu vết nào ở trong nước.

Mặt khác, làm luận án TS mới chỉ là đi những bước chập chững đầu tiên trên con đường dấn thân vào sự nghiệp nghiên cứu khoa học suốt đời.

Nếu mang những mảnh bằng TS về trình làng mà đất nước không tạo điều kiện để họ tiếp tục nghiên cứu khoa học, duy trì quan hệ quốc tế, trưởng thành lên theo chuyên ngành của mình để còn đào tạo ra những ê kíp mới, thì chẳng khác nào đem toàn bộ tiền của đó đổ xuống sông xuống biển.

Đó là chưa kể, nói theo hình ảnh của Lỗ Tấn, có người nào đó cần tìm một hòn gạch để gõ cửa vào chốn quan trường, lọt vào cửa rồi quẳng nó đi, giữ làm gì.

Thứ hai, 125 triệu USD nói trên chưa bằng ¼ kinh phí nhà nước rót cho KHCN trung bình hàng năm trong giai đoạn mười nưam 2007 – 2016 theo như định mức 0,5% GDP được thực hiện trong mấy năm gần đây. Trên thực tế, nếu các chương trình và đề tài KHCN được thẩm định và nghiệm thu nghiêm túc thì khoản kinh phí nhà nước rót đều đều 0,5% GDP sẽ không thể sử dụng hết.

Thứ ba, nó vẫn rất khiêm tốn nếu so với chi phí sản sinh ra bài báo quốc tế ở các nước. Thật vậy, nếu cứ tạm xem toàn bộ 125 triệu USD/năm là khoản đầu tư R&D chỉ để sản sinh ra 500 bài báo quốc tế hàng năm, thì mỗi bài báo tốn mất 250 nghìn USD, khoản chi phí này vẫn thấp hơn Nhật 12 lần; Singapore 4,5 lần; Mỹ 4 lần; Hà Lan 2,6 lần (xem Bằng chứng và Lý giải, Phạm Duy Hiển, NXB Trẻ, 1/2007). Nếu lấy thời gian khấu hao không phải 10 năm như vừa tính, mà 20 năm thì mức chênh lệch sẽ còn tăng gần gấp đôi, và chi phí sản sinh ra bài báo quốc tế của ta sẽ bằng Trung Quốc. Xem ra, làm TS ở nước ta vẫn còn “rẻ” chán!

Thứ tư, ngoài nghiên cứu khoa học và đào tạo TS, các phòng thí nghiệm và bộ môn nói trên còn có nhiệm vụ giải quyết các yêu cầu của nền kinh tế, tạo ra tiềm lực công nghệ cho đất nước, nghĩa là sẽ làm ta tiền, mà chắc chắn sẽ có lãi.

Đương nhiên, toàn bộ chương trình quốc gia này chỉ đạt hiệu quả cao một khi được tính toán chu đáo, tối ưu, không lãng phí tham nhũng và trùng lặp. Ta đã có kinh nghiệm về nhiều bài học nhãn tiền như thế này rồi!

Tóm lại, chương trình đào tạo 20.000 TS trong mười năm tới là khả thi. Nó sẽ tạo ra bước ngoặt thật sự cho sự phát triển kinh tế xã hội, đổi đời cho ĐH và khoa học, và tránh cho đất nước khỏi thảm hoạ chỉ biết bán sức lao động giản đơn và của cải cha ông để lại trở thành một thị trường béo bở cho nước ngoài tiêu thụ hàng hoá của họ.

Thành tích của chương trình đào tạo 20.000 TS không phải là những mảnh bằng cùng với cân đai áo mão mà các ông nghè mang đất ra làm khoa học, thiếu niềm đam mê, thiếu những cơ sở nghiên cứu tầm quốc tế ở các trường đại học thì… Ta vẫn cứ là ta!

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.