Đưa thông tin đến nông dân: Đường còn xa
Theo kết quả điều tra về phát triển Internet tại các quốc gia trên thế giới do Quỹ Nghiên Cứu Internet GOV3 của Anh công bố ngày 17/11/2005, tại Hội nghị thượng đỉnh Xã hội thông tin toàn cầu, Việt Nam đứng thứ 3 trong nhóm các quốc gia tiên phong về tốc độ phát triển về mạng lưới Internet với số người sử dụng Internet tăng hơn 27% trong 4 năm qua. Gần 10% dân số sử dụng Internet. Tuy nhiên, chỉ số tiếp cận (DAI) không cao do trình độ sử dụng thấp, ít các ứng dụng thiết thực.
Chương trình nhiều - hiệu quả thấp
Nhà nước và nhiều địa phương, nhiều tổ chức đã triển khai các chương trình ứng dụng CNTT - truyền thông (CNTT - TT) vào khu vực nông thôn. Chẳng hạn chương trình “Phổ cập tin học” do sinh viên CNTT ĐH Cần Thơ phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các địa phương thực hiện tại một số tỉnh/thành khu vực ĐBSCL. Tuy nhiên, kết quả của chương trình này cũng khiêm tốn như mục tiêu đề ra: Giới thiệu cho thanh niên nông thôn về máy tính và Internet.
Một chương trình khác: “Nông dân điện tử (ĐT)” tại An Giang, đặt mục tiêu ứng dụng CNTT hỗ trợ cung cấp thông tin, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, các mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả cho nông dân (ND). Nhưng kết quả lại chỉ dừng lại ở mức thí điểm và phong trào! Đề án “Khuyến nông điện tử” (e-Mekong) của ĐH Cần Thơ thực hiện các khoá đào tạo khuyến nông qua mạng, ND, có thể tham gia học trực tuyến và trao đổi trực tiếp với các chuyên gia những vấn đề mà họ cần tư vấn. Những đề án này vẫn đang tìm nguồn kinh phí để triển khai! Ngoài ra còn có một chương trình “Dự án quốc gia phát triển cộng đồng” - đưa Internet về nông thôn do Rổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) triển khai trong cả nước. Theo đó VNPT sẽ triển khai khoảng 9.000 diểm bưu điện văn hoá xã (ĐBĐVHX) và trên 10.000 điểm tại các vùng nông thôn miền núi có Internet. Còn nhiều chương trình khác như: Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin nông thôn do Bộ NN - PTNT chủ trì; các dự án lớn nhỏ do các tổ chức phi chính phủ, viện nghiên cứu trong ngành nông lâm nghiệp triển khai...
Đánh giá hiệu quả các chương trình, ông Nguyễn Hồng Vân, Chủ tịch Hội Tin học Cần Thơ, cho rằng: “Hầu hết các chương trình đều có tác động tích cực. Về lý thuyết chúng có thể bổ khuyết cho nhau, tuy nhiên do triển khai rời rạc, thiếu phối hợp đồng bộ nên còn nhiều hạn chế, chưa mang lại hiệu quả thiết thực như mong muốn”. Theo ông Vân, kết quả này là do những nguyên nhân như ND chưa chuyển đổi được thói quen thông tin liên lạc từ thư, điện tín, bưu phẩm và điện thoại sang dùng Internet; nguồn thông tin khuyến nông trên mạng chưa được chọn lọc, biên tập phù hợp với trình độ ND và nhu cầu sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp...
Chưa gần gũi với nông dân
Hiện nay phần lớn ND tiếp cận kiến thức, thông tin về nuôi trồng qua sách, báo, đài. Tuy nhiên với những kênh thông tin này, thời gian hồi âm thắc mắc của ND rất lâu. Ông Vũ Văn Luận, ND xã Minh Lãng, huyện Vũ Thư (Thái Bình) cho biết: “ND biết ít về cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Tài liệu, sách báo có hướng dẫn nhưng ND chúng tôi học thấp, kiến thức không đồng đều nên tiếp thu chậm lắm. Mỗi năm lại nhiều loại sâu, dịch bệnh khác nhau..., ND chẳng biết hỏi ai. Chẳng lẽ lúc nào cũng đến hỏi Sở NN&PTNT”.
Chuyển thông tin qua Internet là cách làm nhanh, thuận tiện cho việc trao đổi hai chiều, giải đáp thắc mắc cho ND. Tuy nhiên dù Internet đã đến gần ND qua hơn 2.000 điểm Bưu Điện Văn Hoá Xã (BĐVHX) nhưng vẫn chưa song hành cùng chất lượng và hiệu quả. Ông phạm Văn Được, giám đốc Sở BCVT Yên Bái cho biết, phần lớn nhân viên ở các điểm BĐVHX là con em cán bộ xã, thiếu kỹ năng tin học cơ bản để hướng dẫn ND; họ chỉ trông coi được việc gọi điện, thu tiền và phát tem, báo...
Qua tiếp xúc, nhiều ND cho biết sẵn sàng bỏ tiền tìm kiếm thông tin khuyến nông (doanh thu từ dịch vụ Internet hiện chiếm 14,1% tổng doanh thu từ các dịch vụ của các điểm BĐVHX). Nhưng ND cần thông tin thiết thực; được cập nhật, hướng dẫn chi tiết; có thể ứng dụng được ngay và nếu vướng mắc phải có nơi giải đáp. Trong khi cách tổ chức các trang web hiện nay mang nặng tính chủ quan của cơ quan chủ quản, chưa thực sự hiểu người ND cần gì. Một số trang số hoá nội dung của sách, báo hướng dẫn nuôi trồng mà không cập nhật thông tin.
Bà Trần Mai Phương, quản trị trang www.vietlinh.com.vn,cho biết , thông tin hướng dẫn kỹ thuật chỉ mang tính đại chúng và tham khảo để khi chưa nuôi thì biết cách nuôi hoặc mới nuôi thì tham khảo thêm. Còn nuôi trồng thực tế lại cần kinh nghiệm. Vì vậy, cần có diễn đàn trên mạng để bà con trao đổi.
“Sách hướng dẫn khuyến nông - ngư tuy nhiều nhưng phần lớn viết bằng ngôn ngữ khoa học, không sát với thực tế. Chẳng hạn có sách hướng dẫn ND lập biểu đồ khi nuôi tôm... vượt quá khả năng ND. Hay có những khái niệm mới nghe qua tưởng ai cũng biết như cày lật đất, cuốc... nhưng cày sâu bao nhiêu, lật lên bao nhiêu, phơi nắng bao lâu... thì không có trong khi người ND rất cần được hướng dẫn tỉ mỉ”, bà Phương nói.
Bà Hoàng Diệu Tuyết, phó chủ tịch thường trực Hội ND Việt Nam , góp y: Cần phân tầng thông tin cho nhiều ngành nghề, trình độ. Chẳng hạn những ND khá giả muốn biết về các nguồn vốn ngân hàng, đối tác, công nghệ mới, mở rộng sản xuất, xuất khẩu. Trong khi ND nghèo lại cần kinh nghiệm nuôi, trồng thực tế, cụ thể, tỷ mỷ, gàn gũi và đơn giản”.
Hiện nay, thông tin trên Internet mới chỉ dừng ở mức độ sốhoá thông tin khuyến nông mà chưa tận dụng hết ưu thế của công nghệ Internet. Các nhà khoa học không biết ND vướng ở đâu, còn ND vướng mắc lại chẳng biết hỏi ai. GS. Võ Tòng Xuân, hiệu trưởng ĐH AN Giang, chia sẻ: “ND mình không có thời gian học. Chỉ có thể dạy họ kiến thức, kỹ năng cao nhất gắn với điều kiện sinh sống của họ. Muốn vậy, nhà khoa học và đội ngũ người thực hiện - gồm những người quản trị trang web và cán bộ điểm BĐVHX - cần “bắt tay” chặt chẽ trong việc hướng dẫn ND”.
Đáng tiếc tất cả chỉ là gợi ý!