Yếu tố tâm lý trong chữa bệnh lợi ích và hạn chế của hiệu ứng placebo
Hiệu ứng placebo
Trong quyển sách “ Nơi không có bác sĩ” (Where there is no doctor, được dịch và xuất bản với tựa đề: “Chăm sóc sức khoẻ”), tác giả, Bác sĩ David Werner, đã kể: “Có lần tôi thấy một bệnh nhân nhức đầu dữ dội. Một phụ nữ đưa cho anh ta miếng khoai mài và bảo rằng đây là thuốc giảm đau rất nhanh. Anh ta tin lời, đã ăn nó và kết quả là khỏi đau nhanh chóng”. Ở đây, yếu tố tâm lýcủa người bệnh đã được tác động để phát huy tác dụng tích cực. Khi người bệnh được cho dùng một chất nào đó mà không phải là thuốc, nhưng nếu có sự tin tưởng tuyệt đối đó là thuốc thật, dùng chất đó và khỏi bệnh gọi là hiệu ứng placebo.Trong chừng mực nào đó, có thể ghi nhận hiệu ứng placebođể giải thích những vụ việc liên quan đến việc chữa bệnh “kỳ lạ” mà nhiều người cho rằng khoa học khó có thể giải thích được. Đó là việc dùng nước lạnh, bùa chú hay bất cứ thứ nào không phải là thuốc, nói chung là dùng những phương tiện, phương cách không theo y học chính thống nhưng có sự tin tưởng và tác dụng vẫn có thể chữa được bệnh.
“ Placebo” có nghĩa là “ tôi làm vui lòng”, ý nói bác sĩ sẽ tác động đến yếu tố tâm lýcủa người bệnh. Trong quá trình điều trị bệnh, thầy thuốc thường khai thác tối đa yếu tố tâm lý để giúp quá trình bệnh diễn tiến tốt. Bác sĩ có mối quan hệ tốt với bệnh nhân, cung cách khám chữa bệnh đúng mực, nói năng nhẹ nhàng, thân tình, giải thích rõ ràng cặn kẽ, sẽ giúp cho bệnh nhân ổn định về mặt tâm lý và giúp việc điều trị bằng thuốc hoặc bằng phương thức trị liệu nào đó đạt kết quả nhanh và tốt hơn. Trước nay, đã có một số phương thức điều trị không dùng thuốc mà dựa hẳn vào yếu tố tâm lý như thôi miên, tự kỷ ám thị, thiền định… để ổn định tâm lý. Nếu stress đã được minh chứng là có thể làm giảm sức đề kháng của cơ thể thì ngược lại, những biện pháp giúp ổn định tâm lý, sảng khoái về mặt tinh thần sẽ giúp nâng cao sức đề kháng của cơ thể để chống lại bệnh tật. Người ta ghi nhận các rối loạn liên quan đến triệu chứng cơ năng (như bệnh suy nhược thần kinh) hay các bệnh thuộc loại tâm thể(psychosomatic diseases) như đau dạ dày, nhức đầu, tăng huyết áp… chẳng hạn, rất dễ chữa khỏi bằng các liệu pháp tác động đến yếu tố tâm lý bên cạnh việc dùng thuốc. Trong quá trình điều trị bệnh, bác sĩ điều trị có thể cho một thứ thuốc để khai thác hiệu năng placebo, thí dụ, bệnh nhân bị rối loạn không cần dùng đến thuốc nhưng lại có tâm lý không thể cưỡng là phải được dùng thuốc, bác sĩ có thể dùng vitamin để khai thác tác dụng tích cực của yếu tố tâm lý. Và thuốc trong trường hợp này là chất không có tác dụng chữa bệnh thực sự, gọi là placebo (ở ta, thường được gọi là “giả dược” hoặc “thuốc vờ”). Người bệnh dùng placebo do tin tưởng đó là thuốc chữa bệnh thật và có thể khỏi bệnh. Trong một số từ điển y học, placebo còn được gọi là “ thuốc gây niềm tin” (make believe medicine). Thậm chí placebo không chỉ cho tác dụng chữa bệnh mà có khi placebo còn gây tác dụng phụ được gọi là nocebo,như gây nôn ói, chóng mặt, buồn ngủ, nhức đầu, tiêu chảy… giống y như thuốc thật. Tuy nhiên, chúng ta nên xem chữa bệnh bằng yếu tố tâm lý, placebo chỉ là biện pháp hỗ trợ, chứ không thể thay thế cho tất cả các phương thức trị liệu của nền y học chính thống. Các nghiên cứu cho thấy người bệnh hợp với việc dùng placebo là người nhạy cảm, có trạng thái dễ tin, dễ có cảm xúc, dễ thuyết phục, dễ tự kỷ ám thị. Cũng cần kể thêm, trong một số trường hợp có khi là tình cờ, dùng đúng placebo vào lúc bệnh sắp khỏi và tự khỏi mà cứ nghĩ là do placebo.
Thật ra, không chỉ viên thuốc vờ làm cho người bệnh tưởng là thuốc thật mà lời nói, mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân cũng có thể trở thành placebo hoặc nocebo.