Xung đột vùng - miền giữa các tộc Việt từ thế kỷ XIII đến XIX
Trong một phỏng vấn của đài BBC Luân Đôn năm 2003 ông đã giải trình sự thay đổi tư tưởng đó và tỏ ra hồ nghi vơi những lập luận trước đây. Trong tham luận đọc tại Hội nghị Việt Nam học năm 1998 ở Hà Nội ông cũng nhấn mạnh vào “những vùng và địa phương hoặc các nhóm xã hội hay chính trị trong quá khứ đã bị bỏ qua hay là không được coi trọng bằng các chủ đề thống nhất của các phạm trù dân tộc” (“Việt Nam học ở Bắc Mỹ”, trong Các nhà Việt Nam học nước ngoài viết về Việt Nam, Nxb Thế giới, 2002).
Để giúp bạn đọc theo dõi vấn đề đang gây nhiều cuộc tranh cãi, mà giới sử học Việt Namchưa tiếp cận được, chúng tôi lần lượt trích đăng từng phần bài viết trên, kèm theo những ý kiến phản bác của các học giả Việt Nam ở nước ngoài.
Trong thế kỷ 20, các mô tả về lịch sử và văn hoá Việt Nam đã đặt trọng tâm vào những mô hình về sự thống nhất và liên tục. Trong bài tiểu luận này, tôi sẽ khảo sát những sự tương quan có thể có giữa suy nghĩ và nơi chốn, giữa các cách làm người Việt và địa hình. Mục đích của tôi là đặt những sự hình thành tư tưởng và hành động của người Việt vào từng địa điểm cụ thể ở không gian và thời gian khi chúng xuất hiện.
Tôi sẽ nói bằng ngôn ngữ tương đối tổng quát để thảo luận những sự kiện trải dài trong nhiều thế kỷ và nhiều khu vực. Trong một số trường hợp, cái nhìn của tôi dựa trên những nghiên cứu chi tiết về các chủ đề đã được đề cập bởi tôi hay nhiều người khác. Trong các trường hợp khác, tôi nương theo trực giác, nhường cho các nghiên cứu tương lai xác nhận hoặc bác bỏ quan điểm của tôi. Tôi hướng đến một cái nhìn chặt chẽ mà có thể giúp ích cho nghiên cứu tương lai nhờ sự khơi gợi hoặc khích động: tôi đã không tự phụ cho rằng quan điểm của mình là dứt khoát đúng.
Tôi đã chọn thảo luận sáu cuộc xung đột liên quan năm vùng trong năm thế kỷ. Các xung đột vùng này có thể liên quan đến sự mở rộng biên giới phía Nam của các dân tộc nói tiếng Việt và sự thể hiện các quyền lợi chính trị của các vùng. Chúng cũng có thể liên quan các hình thức địa phương của tôn giáo, ý thức hệ, ngôn ngữ và văn hoá. Phương pháp của tôi là sẽ ngắn gọn duyệt lại các cuộc xung đột và bày tỏ một số bước phân tích có thể áp dụng cho các xung đột này.
Có bằng chứng về xung đột tại các điạ phận được cho là nơi tổ tiên người Việt hiện đại từng cư trú thời xưa nhất mà văn bản còn ghi lại, dù là chuyện về các Vua Hùng huyền thoại, hay các văn bản còn lưu giữ tại Trung Quốc, hay những sự kiện ghi trong biên niên sử của Việt Nam (1). Trong những năm cuối trị vì của Lê Hoàn, vào đầu thế kỷ 11, các cuộc chinh phạt của triều đình liên tục tấn công những cư dân của khu vực này mà nay là các tỉnh Vĩnh Phú, Thanh Hoá và Nghệ An (2), tất cả toạ lạc ở bên rìa hay bên ngoài đồng bằng sông Hồng rộng lớn, nơi khi đó là trung tâm quyền lực của Hoàng gia. Con trai và là người nối nghiệp của Lê Hoàn, Lê (Long) Đĩnh, tiếp tục đưa quân tấn công các dân tộc ở Thanh Hoá và Nghệ An và xây một con đường xuyên qua các tỉnh miền Nam này để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các cuộc chinh phạt (3).
Vị vua tiếp theo, Lý Công Uẩn cũng mở chiến dịch chống các tỉnh miền nam này, nói rằng ông không thể không tấn công người dân Nghệ An vì họ “không tôn trọng những hướng dẫn khai hoá” (4). Những dấu hiệu chiến tranh trong đầu thế kỷ 11, khi một chế độ triều đình địa phương đang bắt đầu hình thành, có thể được hình dung như cuộc xung đột giữa tổ tiên của những dân tộc mà trong thời hiện đại đã được phân biệt theo ngôn ngữ và xã hội là các chi người Kinh (vùng thấp) và người Mường (vùng cao) của các dân tộc Việt. Đó không phải là những chương riêng lẻ.
Hai cuộc xung đột đầu tiên trong sáu xung đột tôi muốn nhắc đến diễn ra giữa nơi tôi gọi là Đông Kinh, tức đồng bằng sông Hồng mà trung tâm là Hà Nội, với Thanh Nghệ, toạ lạc nơi miền nam và bao gồm các tĩnh Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh. Cần nhắc rằng phương ngữ tại phần phía nam của Thanh Nghệ, tức Nghệ Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh) lại gần với tiếng Mường hơn là tiếng Kinh. Ngay cả hiện nay, giữa những người làm việc trong chính phủ và giới khoa bảng ở Hà Nội cũng có sự nhận thức về tương quan ảnh hưởng và quyền lực giữa người từ Hà Nội và các tỉnh xung quanh với người từ Thanh Nghệ (Thanh Nghệ Tĩnh hay Nghệ Tĩnh). Không phải ai cũng nhớ rằng các khu vực này đã từng gây chiến với nhau trong đầu thế kỷ 15 và hầu như trong suốt thế kỷ 16.
Chương xung đột đầu tiên tôi chọn để thảo luận đã hầu như bị chôn sâu đằng sau khung viết sử theo hình thức kháng chiến chống ách đô hộ quân Minh trong ba thập niên đầu tiên của thế kỷ 15. Nhưng cái điều được xác quyết hời hợt như cuộc chiến “giải phóng dân tộc” lại có vẻ khác hẳn khi được xem xét kỹ.
Vào cuối thế kỷ 14 Hồ Quý Ly đã kiểm soát triều Trần và năm 1400 tự lập triều đại riêng. Trong khi nhà Trần là người thuộc đồng bằng sông Hồng, Hồ Quý Ly là người từ Thanh Nghệ, và ông xây một thủ đô mới ở Thanh Hoá. Việc ông không dành được sự trung thành của vùng Đông Kinh là một yếu tố quan trọng trong việc nhà Hồ không chống nổi cuộc xâm lược của nhà Minh năm 1406 - 1407, thời điểm khi Hồ Quý Ly từ bỏ phần lớn khu vực Đông Kinh và tìm cách phòng thủ bờ nam của sông. Hồng. Có nhiều bằng chứng cho thấy đa số sĩ phu của Đông Kinh sẵn sàng chấp nhận sự cai trị của quân Minh và rằng nhiều thế gia vọng tộc ở khu vực này, đặc biệt là họ Mạc đã trung thành phục vụ quân Minh. Năm 1407 người Minh nói hơn 1100 nhân vật có thế lực địa phương bày tỏ sự trung thành với nhà Minh và yêu cầu vùng đất của họ sát nhập vào đế chế Trung Hoa. Tài liệu của nhà Minh ghi lại rằng hơn 9000 người địa phương sau đó đã đến thủ đô nhà Minh để được sắc phong làm quan chức cấp tỉnh. Hiệu lực của sự cai trị của nhà Minh đã không thể xảy ra nếu không có sự chấp nhận và tham gia với mức độ lớn của người địa phương (5).
Không khó để đọc cái gọi là “phong trào giải phóng dân tộc” của Lê Lợi như là cuộc chinh phục của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh, với việc nhiều nhân vật Đông Kinh xem người Minh như thế lực bảo vệ chống sự quê kệch của các tỉnh phía nam. Cái nhìn này đi ngược với cách viết sử của nhà Lê và cách viết sử dân tộc chủ nghĩa thời hiện đại, nhưng khi xét các sự kiện về sau, nó lại đáng tin hơn so với khuynh hướng thông thường giả tảng như nhiều ngàn người phục vụ quân Minh hoặc đã biến mất vào màn sương phương Bắc hoặc bỗng dưng quay lại thành người yêu nước.
Vai trò của Nguyễn Trãi, sĩ phu Đông Kinh nổi tiếng và là người về Nam để ra nhập đoàn quân Lê Lợi ở Thanh Nghệ, không phải là nhân vật tiêu biểu hay đại diện cho xu thế chung ở quê ông. Các bài thơ ông viết trong thời Minh và trước lúc ông về nam phục vụ Lê Lợi thể hiện như cách dùng từ của O. W. Wolters“một người xa lạ ngay trên mảnh đất của mình”(6). Nhiều bài văn ông viết sau khi ông về nam là những lá thư gửi người cùng thời phục vụ nhà Minh, thúc giục họ quay sang phục vụ Lê Lợi (7). Sau này Nguyễn Trãi bị cô lập và triệt tiêu - bị cáo buộc tội giết vua và bị sử trảm năm 1442. Thảm kịch này chắc chắn có sự tác động của việc ông đã tách mình khỏi cả những người đồng hương ở Đông Kinh để phục vụ quyền lợi của Thanh Nghệ. Mặt khác, những bài thuyết lý của ông về cách cai trị và nỗ lực muốn đưa thêm người Đông Kinh vào phục vụ công việc triều chính lại khiến ông bị cô lập bởi những thế lực đang lên từ Thanh Nghệ.
Lê Thánh Tông (trị vì 1460 - 1497) thường được xem là vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam bởi vì ông tạo lập được một chính quyền trung ương kiểu Trung Hoa và đã có cuộc chinh phục Champa. Thế nhưng thành tựu quan trọng nhất của ông lại không thường được công nhận: đó là thành công của ông trong việc tập hợp đoàn cận thần dung hoà cả quyền lợi của Đông Kinh và Thanh Nghệ. Triều đại của ông và âm hưởng trong sự trị vì của người con nối nghiệp đã tạm thời dập tắt căng thẳng nhờ việc đáp ứng các quyền lợi của các phe. Một khía cạnh trong sự đáp ứng này là việc chinh phục lãnh đạo người Chàm ra tới đèo Cù Mông, ở biên giới phía nam sau đó là tỉnh Bình Định. Nó đem lại cho phe Thanh Nghệ một khoảng không gian mới cho tham vọng của họ. Một khía cạnh khác trong sự đáp ứng quyền lợi này là các khoa thi tạo cơ hội nhập triều chính cho những người Đông Kinh có gia đình từng phục vụ người Minh (8). Tuy vậy thành công của vua Lê Thánh Tông phần lớn bắt nguồn từ uy tín cá nhân của ông. Nó thể hiện rõ khi chỉ hơn một thập niên sau khi ông mất, triều đình bắt đầu phân rã thành những phe nhóm diệt nhau để rồi sau đó khởi đầu cho ba thế hệ chiến tranh giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ, tức là cuộc nội chiến Lê - Mạc của thế kỷ 16. Đây là chương xung đột thứ 2 mà tôi chọn thảo luận trong bài viết này.
* Sự hỗn loạn trong đầu thế kỷ 16 thể hiện qua những cuộc nổi dậy của nhân dân ở Đông Kinh, mà lớn nhất là của Trần Cao. Đó là một nhà sư tự nhận mình là Đế Thích giáng sinh và hậu duệ nhà Trần. Những sự hỗn loạn này có thể dễ dàng được hiểu là phản ứng mang tính phật giáo của Đông Kinh trước thay đổi được gán cho triều Lê của Thanh Nghệ và yếu tố nho giáo của nó (9). Nhân vật tái lập trật tự ở Đông Kinh, Mạc Đăng Dung là thành viên trong cùng gia đình họ Mạc mà từng ủng hộ nhà Minh một thế kỷ trước. Ông tập hợp nhóm cận thần mở rộng cửa cho các gia đình Đông Kinh và thành công trong việc huy động sự ủng hộ của địa phương (10). Một chi tiết quan trọng nhưng ít được nhắc tới là Đông Kinh đã trung thành sâu sắc với gia đình họ Mạc trong thế kỷ 16 và Đông Kinh đã cứng rắn chống lại cuộc chinh phục của đoàn quân Thanh Nghệ vào cuối thế kỷ này.
Trịnh Tùng, người dẫn đầu cuộc chinh phục của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh trong thập niên 1590, đã tổ chức sự chiếm đóng quân sự tại Đông Kinh mà vẫn còn thể hiện rõ khi Alexandre de Rhodes sống ở đó trong thập niên 1620 - 1630. Alexandre de Rhodes tường thuật có vẻ với sự phóng đại rằng 50.000 lính từ Thanh Nghệ đóng thường trực tại “Hoàng Thành” ở Đông Kinh để bảo vệ những người trị vì và đàn áp các cuộc nổi dậy ở các tỉnh xung quanh Hà Nội. Bên cạnh đó còn là các đoàn thuỷ quân lớn tuần tra trên sông “để bảo vệ ông hoàng trước mọi phe phản loạn” (11). Cho đến tận năm 1630, các cuộc càn quét của họ Mạc từ thung lũng Cao Bằng phía bắc, nơi nhà Mạc tiếp tục trị vì cho đến thập niên 1670 thể hiện dư âm cuộc nổi dậy chống lại nhà Trịnh của những cư dân vùng phía Đông Kinh (12). Cho mãi đến thập niên 1630, dưới sức ép thất bại quân sự ở miền nam, nhà Trịnh mới bắt đầu thu phục nhiều người Đông Kinh dưới trướng của họ. Kết quả của việc này là cuộc xung đột phe nhóm kéo dài dựa trên các cạnh tranh quyền lợi địa phương (13). Các căng thẳng tương tự cũng thể hiện trong các cuộc nổi loạn lan rộng hầu khắp Đông Kinh trong thập niên 1740, 1750 và 1760 khi các đoàn quân nông dân địa phương bị lính từ Thanh Nghệ đàn áp sau nhiều năm đánh nhau.
Qua những gì trình bày, điều mà tôi hy vọng thể hiện là cuộc xung đột vùng giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ là đặc điểm nổi bật trong hình dung của chúng ta về một kinh nghiệm lịch sử Việt Nam . Đông Kinh là đồng bằng trồng lúa rộng lớn với dân số tương đối đông dọc các dòng sông và biển; người dân ở đây xem vùng rừng núi chủ yếu là điều gì đó xa lạ. Thanh Nghệ chạy dài vào miền nam với đồng lúa thưa thớt giữa các đồi và núi; đồi núi ở nhiều nơi kéo dài ra vùng duyên hải; những người trồng lúa sống như các láng giềng gần của các nhóm miền núi cao có cách sống ít mang tính nông nghiệp hơn. Trong nhiều thế kỷ, Đông Kinh dày đặc các chùa chiền và lâu đài; các quan lại người Trung Hoa và vua nước Việt đã cai trị ở Đông Kinh nhiều thế kỷ, Thanh Nghệ là vùng biên giới tương đối hoang vu giữa Đông Kinh và khu vực người Chăm ở phía nam. Bắt đầu với Hồ Quý Ly và sau đó với Lê Lợi, Thanh Nghệ trở thành khu vực của các vị vua và lãnh chúa có khao khát thống trị Đông Kinh; đó là nơi tuyển quân cho triều đình và là quê hương của những người nghĩ rằng họ phải lao động kham khổ giữa sự nhũng lạm miền Bắc của Đông Kinh. Đông Kinh, mặc dù có liên hệ chặt chẽ hơn với văn hoá Trung Hoa, không thể cạnh tranh về mặt quân sự với Thanh Nghệ, bởi vì đằng sau Thanh Nghệ là một vùng rộng lớn của những người nói tiếng Việt, một kho tiềm tàng nguồn nhân lực bổ sung lính nhập ngũ, những người không quen với và không chịu ràng buộc bởi những lề thói của người nông dân trồng lúa. Đổi lại, Thanh Nghệ không thể thống trị khu vực nếu nó mở rộng ra ngoài tầm với của Thanh Nghệ trong thế kỷ 17, nỗ lực trong suốt nhiều năm của Thanh Nghệ muốn kiểm soát các lãnh địa nằm sâu về hướng nam đã kết thúc trong thất bại.
______________________
* Kaith W.Taylor, “Regional Conflicts Among the Việt Peoples Between the 13 thand 19 thcenturies” (1998), trong Guerre et paix Asie du Sud-Est, Nguyễn Thế Anh & Alain Forest (Chủ biên). Sau đó được tác giả bổ sung và in với tựa đề “Surface Orientation in Vietnam : Beyond Histories of Nation and Region” trong Journal of Asian Studies 57, 4 (11 -1998), tr. 949 - 978.
[1] K.W. Taylor, The Birth of Vietnam, Berkeley, Nxb Đại học California, 193, tr. 6, 21 - 22, 57 - 66, 78, 89 - 19, 94 - 95, 110, 112 - 113, 151, 155, 226, 228 - 229, 240 - 248, 265 - 268, 275 - 280, K.W. Taylor, “The Twelve Lords in Tenth - Century Vietnam”, Journal of Southeast Asian Studies, 14, 1 (3 - 1983), tr. 46 - 62.
[2] Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội, Nxb KHXH, 1993, I, tr. 230 [xem các năm 1000, 1001, và 1003].
[3] Nt. I, tr. 235 – 236 [xem các năm 1008 và 1009]
[4] Nt, I, tr. 243 [xem năm 1012]. Cũng đọc thêm, K. W. Taylor, “Quyền uy và tính chân chính ở Việt Nam thế kỷ XI” trong Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Tạp chí Xưa & Nay, Nxb Trẻ, Tp HCM, 2001: 63 - 104.
[5] A.B. Woodside, “Early Ming Expansionism (1406 – 1427): China’s Abortive Cinquest of Vietnam”, Papers on China, 17, (1963), tr. 12 – 21, thể hiện ngầm mức độ người địa phương tham gia chính quyền Minh, nhưng mang tính phân tích tập trung vào thất bại chung cuộc của chính sách của Minh. John K. Whitmore, Vietnam, Hô Quy Ly, and the Ming (1371 – 1421), New Haven, Yale Southeast Asia Studies, 1985, tr. 91 – 116, cung cấp sự xem xét bao quát hơn, ít phân tích, về chủ đề này.
[6] O.W.Wolters, “A stranger in his own land: Nguyễn Trãi’s Bình Ngô Đại Cáo of 1428”, Journal of Southeast Asian Studies, 10, 1 (3 - 1979), tr. 164 - 173.
[8] Nola Cooke, “Nineteenth – Century Vietnamese Confucianization in Historical Perspective: Evidence from the Palace Examinations (1463 - 1883)”, Journal of Southeast Asian Studies, 25, 2 (9 - 1994), tr. 277 - 281.
[9] Nt, tr. 288 - 293.
[10] N, tr. 284 - 288.
[11] Alexander de Rhodes, Histoire du Toyaume de Tunquin, Lyon, Jean Baptiset Devenet, 1651, tr. 6 - 17.
[12] L. Cadière, “Le Mur de Đồng Hới: étude sur I’établissement des Nguễn en Cochinchine”, Bulletin de I’Ecole Francaise d’Extreme – Orient, 6 (1906), tr. 138.
[13] Nt, tr. 11 - 22.
Nguồn: Xưa & Nay, số 269, 10/2006, tr 13