Xây dựng Thừa Thiên Huế thành trung tâm khoa học và công nghệ của cả nước và khu vực Đông Nam Á
Với cách đặt vấn đề như trên, chúng ta xem xét Thừa Thiên Huế có thế mạnh KH&CN không, thế mạnh trội vượt là gì, cơ sở hình thành và phát triển có đảm bảo các yếu tố chủ quan và khách quan không? Thừa Thiên Huế có xứng đáng là trung tâm KH&CN không?
Là người từng gắn bó công việc nghiên cứu với Thừa Thiên Huế và các tỉnh miền Trung, có điều kiện nghiên cứu, tiếp xúc với nhiều vùng miền trên cả nước trong hơn 30 năm qua, tôi xin mạnh dạn đề xuất một nhiệm vụ quan trọng không những đối với Thừa Thiên Huế mà là của cả nước là “Xây dựng Huế thành trung tâm khoa học xã hội và nhân văn của cả nước và khu vực Đông Nam Á”.
I. Cơ sở hình thành
1. Tiền đề
Dưới triều Nguyễn (1802-1945), Huế là trung tâm KHXH&NV hàng đầu của đất nước. Kinh đô Huế lúc đó có Quốc sử quán với một cơ chế mạnh, đứng đầu là quan nhất phẩm của triều đình với chức Tổng tài, cùng đội ngũ sử gia đông đảo và tài năng nên đã biên soạn nhiều bộ sách, trong đó có bộ Đại Nam thực lục, 502 quyển, biên soạn từ các chúa Nguyễn đến vua Đồng Khánh (chưa kể hàng trăm quyển phụ biên từ vua Thành Thái về sau). Bộ sách này hiện nay vẫn giữ kỷ lục về số quyển và số trang in; còn có các bộ sách có giá trị khác như: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, 53 quyển; Đại Nam nhất thống chí, 28 quyển; Đồng Khánh dư địa chí, 25 quyển. Nội các triều Nguyễn có bộ Đại Nam hội điển sự lệ, 330 quyển (gồm 269 quyển chính biên (thời Tự Đức) và 61 quyển tục biên). Ngoài ra còn nhiều bộ sử do các tác giả khác biên soạn như bộ Lịch triều hiến chương loại chí,49 quyển của Phan Huy Chú (1782-1840) và nhiều bộ sách về văn học, triết học, y học, địa lý… có giá trị.
2. Điều kiện
- Về tư liệu: Hiện nay ở Huế ngoài Trung tâm Học liệu Đại học Huế, Thư viện Tổng hợp của tỉnh, thư viện các trường Đại học Khoa học, Sư Phạm, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế…Nhiều tủ sách gia đình còn lưu giữ nhiều tư liệu quý như gia đình các ông Nguyễn Hữu Châu Phan, Phan Thuận An, Hồ Tấn Phan, Nguyễn Đắc Xuân…
- Về đội ngũ: Hiện nay ở Huế có 38 phó giáo sư, 57 tiến sĩ của các ngành KHXH&NV (sử học, văn học, ngôn ngữ, triết học, kinh tế, chính trị, tâm lý học, xã hội học, luật, giáo dục học, văn hoá, nghệ thuật, kiến trúc…), trong đó sử học nhiều nhất 12 phó giáo sư và 23 tiến sĩ; đội ngũ này cùng với các nhà “Huế học” lão thành làm nòng cốt, là một thế mạnh để xây dựng trung tâm khoa học xã hội nhân văn.
- Về cơ sở nghiên cứu và đào tạo: Hiện nay ở Huế có 7 trường đại học đào tạo bậc đại học có các ngành xã hội nhân văn (trong đó có trường Đại học Phú Xuân với Khoa Xã hội và Nhân văn, Khoa Kinh tế là những khoa chủ lực của nhà trường), 5 trường đào tạo cấp bằng thạc sĩ, 3 trường đào tạo cấp bằng tiến sĩ (Đại học Khoa học, Đại học Sư Phạm, Đại học Kinh tế), khẳng định đẳng cấp về đào tạo các học vị trong có học vị cao nhất của nhiều ngành KHXH&NV hiện nay.
Đại học Huế có trung tâm KHXH&NV Huế, thành lập năm 1995 đã phát huy hiệu quả nghiên cứu khoa học và thực nghiệm các đề án ở nhiều tỉnh miền Trung như tổ chức hội thảo “Từ Hội An đến Chu Lai”, làm cơ sở khoa học để quốc hội và chính phủ xem xét công nhận Khu Kinh tế mở Chu Lai năm 2000 là khu kinh tế mở đầu tiên của Việt Nam; hội thảo khoa học toàn quốc “Văn hóa Việt Nam thời Nguyễn” cùng nhiều công trình và dự án thực hiện tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế với hàng trăm cán bộ có trình độ cử nhân trở lên về các ngành KHXH&NV đã tổ chức xây dựng nhiều đề án, hồ sơ khoa học, trong đó có hai bộ hồ sơ trình UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới năm 1993 và 2003; tổ chức biên soạn nhiều công trình và tổ chức hội thảo khoa học tầm quốc gia và quốc tế. Phân viện Văn hóa Thông tin tại Huế cũng tổ chức nhiều đề tài khoa học, biên soạn nhiều công trình có giá trị, Học viện Âm nhạc Huế, Học viện Phật giáo cũng là đặc sắc về KHXH&NV.
Hội Khoa học Lịch sử của tỉnh là một hội khoa học mạnh nhất trong gia đình Hội Sử học Việt Nam, đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học cấp quốc gia và quốc tế với liên ngành KHXH&NV, thu hút nhiều nhà nghiên cứu lớn của cả nước đến với Huế; tổ chức nghiên cứu nhiều đề tài về lịch sử, địa chí ở các tỉnh miền Trung. Hội có Tạp chí Huế Xưa và Nay là diễn đàn sử học và chung cho các ngành KHXH&NV, được nhiều nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước cộng tác và bạn đọc mến mộ.
- Công trình khoa học: Các nhà khoa học các ngành KHXH&NV ở Huế đã thực hiện thành công 1 đề tài độc lập cấp nhà nước: “Kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn: những vấn đề đặt ra hiện nay” ,PGS.TS Đỗ Bang làm chủ nghiệm đề tài, xuất bản được 10 công trình về triều Nguyễn, nghiệm thu năm 1997, đạt loại xuất sắc và nhiều đề tài trọng điểm cấp bộ, cấp tỉnh; trong đó có bộ Địa chí Thừa Thiên Huế (5 tập), Địa chí Bình Định (7 tập), Lũ lụt ở các tỉnh miền Trung trong hai thế kỷ XIX-XX…
Xuất bản hàng trăm cuốn sách về các ngành KHXH&NV trong đó có nhiều bộ sách được tặng thưởng giải sách vàng như bộ Đại Nam hội điển sự lệ tục biên của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế…
Nhiều nhà khoa học của tỉnh đã chủ trì và tham gia nhiều hội thảo quốc gia và quốc tế, có nhiều công trình công bố trên các tạp chí khoa học trong nước và thế giới.
II. Định hướng và giải pháp khả thi
1. Tính khả thi
Dựa trên thế mạnh của vùng đất giàu tiềm năng về KHXH&NV và có đội ngũ KHXH&NV mạnh, có nhiều công trình khoa học tầm quốc gia, quốc tế; có nhiều cơ sở đào tạo và nghiên cứu về KHXH&NV có tầm cỡ, ưu thế này là mang tính trội vượt so với tất cả các tỉnh thành ở miền Trung và Tây Nguyên; có ngành như Sử học hiện đang giữ lợi thế trong tương quan với thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Dựa trên ưu thế về cán bộ quản lý KHXH&NV có kinh nghiệm và được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh, Huế có đủ điều kiện để xây dựng trung tâm KHXH&NV mang tính khả thi nhất. Trung tâm KHXH&NV ở Huế không những làm nhiệm vụ về KHXH&NV cho tỉnh Thừa Thiên Huế, các tỉnh miền Trung, cho 6 di sản thế giới ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên mà còn làm trung tâm nghiên cứu và đào tạo cho Lào, một số nước Đông Nam Á và Đông Á (Hàn quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan) như bấy lâu đã từng quan hệ với các trường của Đại học Huế.
2. Về định hướng
Trước mắt nên đầu tư cho một số ngành có thế mạnh để phát huy kịp thời như: sử học, văn học, ngôn ngữ, văn hóa, giáo dục, âm nhạc-nghệ thuật, nghiên cứu tôn giáo… Xây dựng cơ sở vật chất hiện đại, tạo mối quan hệ tốt với Viện khoa học xã hội Việt Nam và nhiều tổ chức khoa học chuyên ngành về khoa học xã hội trên thế giới.
3. Giải pháp đề xuất
- Khảo sát về đội ngũ cán bộ khoa học và cán bộ quản lý khoa học xã hội nhân văn trong tỉnh để quy hoạch, xây dựng trung tâm. Khảo sát đội ngũ KHXH&NV quê Thừa Thiên Huế hoặc có công trình về Huế của các tác giả đang ở trong và ngoài nước, để xây dựng mạng lưới liên kết khoa học.
- Lập danh mục các công trình KHXH&NV về Huế.
- Xây dựng Trung tâm Thông tin-Thư viện về KHXH&NV.
- Xây dựng hệ thống đề tài, dự án có tầm quốc gia và quốc tế nhưng mang đặc trưng của
vùng Huế như thành lập Trung tâm Quốc sử, Trung tâm Văn hóa Huế và bộ môn Huế học, Trung tâm Phan Bội Châu, Viện Bảo tồn di sản…
- Quy hoạch và xây dựng đề án thành lập trung tâm KHXH&NV có đội ngũ khoa học và phương án nhân sự tối ưu.
- Xây dựng cơ sở nghiên cứu theo mô hình các viện nghiên cứu hiện nay, có tham gia đào tạo đại học và sau đại học.
Tóm lại, nếu quy hoạch các trung tâm khoa học tầm quốc gia và quốc tế hiện nay, thủ đô Hà Nội là trung tâm “đầu não” của các ngành khoa học, thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm về khoa học kỹ thuật và công nghệ thì Huế sẽ là trung tâm KHXH&NV. Huế hiện có đủ điều kiện để xây dựng thành trung tâm KHXH&NV, nhưng điều kiện ấy có khả thi không là còn do sự vận hành của các ngành khoa học có liên quan và một cơ chế tương thích do tỉnh đề xuất với trung ương. Vị thế của Huế và đội ngũ khoa học là ưu thế trội vượt cần được nhìn nhận và phát huy.








