Xã hội hóa giáo dục thời lập quốc
“Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết, trong đó nhiệm vụ chống nạn mù chữ được xếp thứ hai sau nhiệm vụ chống giặc đói. Tại phiên họp này, Người đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ. Ngày 8/9/1945, Chính phủ ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, quyết định thành lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối. Việc học chữ quốc ngữ là bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ” – lời kêu gọi của Bác Hồ về nhiệm vụ chống giặc dốt đã nhanh chóng thấm sâu vào tâm trí mỗi người dân, làm thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc trong họ. Không ai muốn dân tộc Việt Nam là một dân tộc yếu, không có tri thức.
Quyết tâm, nhận thức là vậy, nhưng để thực hiện được nhiệm vụ đó không hề đơn giản. Lấy tiền ở đâu để thực hiện, để làm kinh phí hoạt động, để mua giấy bút… trong khi ngân sách của nhà nước non trẻ vô cùng eo hẹp.
Ông Vũ Đình Hòe – người từng giữ chức vụ bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục trong Chính phủ lâm thời đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tính toán: “Cứ dạy cho một người biết đọc, biết viết trong ba tháng phải tốn ít nhất là 6 đồng. Dạy cho 10 triệu người trong một năm phải tiêu hơn 60 triệu đồng tiền sách vở, giấy bút. Nếu trả lương giáo viên thì phải thêm 10 triệu đồng nữa vì phải cần đến 10 vạn giáo viên, mỗi giáo viên có thể dạy 100 học sinh trong một năm. Nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì phải ít nhất 30, 40 năm nữa mới kết thúc được phong trào”.
Để hoàn thành được kế hoạch “khổng lồ” đó, phải dựa vào sức dân. Sau đó, Bộ Quốc gia giáo dục đã tổ chức hội nghị toàn quốc bình dân học vụ để bàn kế hoạch triển khai sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xóa nạn mù chữ trong một năm. Cả hội nghị cùng bàn bạc, góp ý và đi đến thống nhất: về khoản chi cho giáo viên thì không phải tốn vì phong trào sẽ không ai nhận tiền lương. Còn về con số 10 vạn giáo viên thì tính ra cả nước có 57 tỉnh, mỗi tỉnh phải tự tổ chức 2.000 giáo viên, mỗi tỉnh có khoảng 800 làng, mỗi làng sẽ tự túc lo ba giáo viên…
Căng nhất là khoản 60 triệu đồng mua sách vở, bút phấn cũng tìm được cách giải quyết ổn thỏa. Trong lúc ngân sách còn eo hẹp, các lớp bình dân học vụ có thể dùng phấn hay gạch để viết xuống đất, chi phí sẽ rút xuống còn 2 đồng chứ không phải 6 đồng như trước đây. Chính phủ sẽ chi 5 triệu đồng, 15 triệu còn lại được các đại biểu nhân dân khắp cả nước nhất trí sẽ do mỗi làng tự lo. Như vậy là nhờ vào sức dân, khoản kinh phí không nhỏ để diệt giặc dốt đã được giải quyết nhanh chóng.
Phong trào bình dân học vụ đã được xã hội hóa sâu rộng, nhận được sự hưởng ứng của toàn thể nhân dân. Những nhà có nhà ở rộng rãi mở lớp học tại nhà cho bà con xóm giềng, nhiều hoà thượng, linh mục cho mượn chùa, nhà thờ để làm lớp. Các nhà hảo tâm ủng hộ những khoản tiền lớn để in sách quốc ngữ, mua phấn, giấy, mực... Những lớp học buổi tối ở nông thôn gặp nhiều khó khăn nhất. Mọi loại đèn, đuốc sẵn có đều được tận dụng như đốt hạt bưởi, đèn dầu lạc... Những giáo viên truyền bá quốc ngữ cũ, thanh niên, học sinh, sinh viên, công chức đều ghi tên làm tuyên truyền viên, dạy học không nhận thù lao.
Những người biết chữ dạy người chưa biết chữ. Lớp học có khắp nơi. Học ở mọi thời điểm có thể, học trưa, học chiều, học tối. Lớp đông giáo viên, lớp một thầy một trò. Chữ viết sẵn trên bảng, treo trên khóm tre, cây đa để bà con học tập. Để tăng cường và đẩy mạnh việc học, việc hỏi chữ được thiết lập. Những người nào đọc được các chữ viết trên các bảng đen dựng bên các bến đò, cổng làng, cổng chợ... thì được đi qua cổng trang trí đẹp gọi là “Cổng vinh quang”.
Phong trào diệt giặc dốt sôi nổi khắp người người, nhà nhà, tạo nên một khí thế học tập tưng bừng chưa từng có.
Kỳ tích của nền giáo dục non trẻ
Tính đến cuối năm 1945, sau hơn ba tháng phát động phong trào xóa mù chữ, theo báo cáo chưa đầy đủ của các tỉnh Bắc bộ gửi về Bộ Quốc gia giáo dục thì đã mở được hơn 22.000 lớp học với gần 30.000 giáo viên và đã dạy biết chữ cho hơn 500.000 học viên. Đáng nói là phần lớn kinh phí đều do các địa phương và tư nhân chi trả.
Trung bộ, Nam bộ cũng có những con số tương tự. Không chỉ xóa nạn mù chữ, Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ đã xây dựng được 14 trường trung học, trường kỹ nghệ cao cấp và sơ cấp với tổng số gần 6.000 học sinh trung học.
![]() |
Phong trào diệt giặc dốt sôi nổi khắp nơi, tạo nên những kỳ tích thật sự của nền giáo dục non trẻ nước nhà. |
Ngày 15/11/1945, mặc dù tình thế rất khó khăn nhưng Trường đại học Việt Nam cũng đã khai giảng. Tờ trình Quốc dân đại hội (Quốc hội) của Bộ Quốc gia giáo dục sáu tháng sau chỉ rõ: “Thành công lớn nhất của chính quyền lâm thời trong việc xây dựng nền giáo dục cho đất nước chính là đặt nền tảng cho một nền giáo dục có tính cách duy nhất, chung cho tất cả các giai cấp xã hội, lấy tôn chỉ bình đẳng làm căn bản, là nền giáo dục cách mạng, khác với nền giáo dục Pháp thuộc trước đây”.
Chỉ sau một năm triển khai Bình dân học vụ (8/9/1945 – 8/9/1946), cả nước đã có gần 75.000 lớp học với hơn 95.000 giáo viên. Hơn 2,5 triệu người đã thoát nạn mù chữ. So với dân số nước ta lúc đó là 22 triệu người, mới thấy đây thật sự là một kỳ tích của nền giáo dục non trẻ.
Đến ngày 28/12/2000, Việt Nam tuyên bố với nhân dân cả nước và với thế giới đã thực hiện xong việc xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước theo chuẩn quốc gia. Lúc này, đất nước ta đã có hơn 82 triệu người. Đó là một mốc son trong lịch sử giáo dục nước nhà.









