Vốn xã hội ở Việt Nam
Trong kinh tế hiện nay xu hướng bắt chước nước ngoài đang thống trị. Các nhà kinh tế học nước ngoài khuyên nên tìm cách nâng cao ưu thế cạnh tranh để đuổi kịp các nươc tiên tiến trên thế giới. Chúng ta quên rằng cha ông chúng ta đã không dựa vào cạnh tranh mà đã dựa vào hợp tác, vào tương trợ để phát triển; có chăng là cạnh tranh với bên ngoài.
Trước hết, nói về truyền thống kinh tế. Truyền thống này thể hiện trên các thể chế kinh tế cổ truyền. Truyền thống quan trọng nhất trong nông nghiệp nước ta là thể chế kinh tế gia đình hộ nông dân. Để bảo đảm công bằng xã hội, xưa kia đã có thể chế ruộng công với các loại ruộng quả phụ, ruộng cô nhi, ruộng học, ruộng trợ sưu, ruộng nghĩa, nhưng nay đã bị xoá bỏ và không có gì thay thế. Ngoài ra còn có các thể chế mang tính tương trợ như giáp, vần công, đổi công, phường, để liên kết những người cùng nghề và hội để liên kết những người cùng sở thích, quỹ nghĩa thương... Ngoài ra còn có các hình thức tín dụng tương trợ như phường liễm ngân do dân góp vốn lại để cho vay, và nhiều hình thức chơi họ (góp tiền hàng tháng để luân phiên vay những món lớn) nhằm các mục đích khác nhau như để làm vốn buôn bán, việc hiếu (ma chay), việc hỉ (cưới xin), lấy tiền ăn tết...
Kinh tế gia đình hộ nông dân thích hợp với nền kinh tế tự cấp. Trong quá trình phát triển của kinh tế hộ nông dân lúc diện tích đất không cho phép tăng thêm thu nhập bằng hoạt động nông nghiệp thì hộ nông dân phát triển các hoạt động phi nông nghiệp như một phần hoạt động kinh tế của hộ nông dân. Trong các làng, ngoài một số ít hộ chuyên hoạt động phi nông nghiệp, tất cả các hộ nông dân đều có các hoạt động như buôn bán nhỏ, thủ công nghiệp hay công nghiệp nhỏ cho đến bán sức lao động cho các hộ khác. Một số hộ có người ra thành phố hay đi nơi khác tìm việc. Tất cả các công việc ấy đem lại thu nhập bổ sung cho hộ. Trong quá trình phát triển có một sự chuyên môn hoá cùng với sự xuất hiện của làng nghề.
Để phát triển kinh tế thị trường, ở nông thôn hình thành một mạng lưới chợ. Ở châu thổ sông Hồng có một chợ cho 3-6 làng. Các chợ ấy họp mỗi phiên cách 3-5 ngày cho phép các nông dân buôn bán đi chợ trong vùng mỗi ngày. Số người buôn chuyên nghiệp không nhiều, một số làng chuyên buôn bán gọi là làng buôn. Lúc việc buôn bán mở rộng đã xuất hiện các trấn, thị, thành với các phố và chợ lớn với các phường buôn, hội buôn. Việc phát triển các đô thị với các chợ lớn như Kẻ Chợ (tên cũ của Hà Nội) đã giúp cho sự phát triển của các làng nghề. Mỗi một phố nghề đều có liên hệ với một hay vài làng nghề và giúp giải quyết đầu ra cho các làng này.
Tuy vậy ở các xã hội phương Đông, trong đó có nước ta, mặc dù đã có sự thương nghiệp hoá nền kinh tế, nhưng nền kinh tế tiểu nông gần mức tự cấp vẫn còn tồn tại đến thế kỷ 20. Co hai xu hướng khác nhau giải thích quá trình này. Tchayanov (1925) cho rằng nền kinh tế nông dân với logic riêng của nó vẫn tồn tại song song với chế độ tư bản. Schultz (1964) cho rằng trong nền kinh tế nông dân cũng có một thị trường cạnh tranh như trong nền kinh tế tư bản, việc sử dụng các nhân tổ sản xuất cũng có hiệu quả. Nông dân cũng phản ứng với thị trường, và tìm cơ hội để đạt lợi nhuận cao nhất và sử dụng nguồn lợi tốt nhất. Sở dĩ có sự trì trệ vì thiếu các kỹ thuật thích hợp.
Cộng đồng làng xã vốn được coi là cơ sở xã hội của nền kinh tế nông dân châu Á. Cộng đồng làng xã là một tập thể khép kín có các đặc điểm sau: tự trị về chính trị, tự cấp về kinh tế, đồng nhất về xã hội và ít thay đổi. Tuy vậy gần đây có một số ý kiến của nhiều tác giả phủ định các nhận xét trên về làng xã (J. Breman, 1988). Thực ra thì làng xã ở châu Á rất đa dạng và ở các trình độ phát triển khác nhau. Ngay ở nước ta tinh thần cộng đồng ở miền Bắc và miền Nam đã khác nhau: ở đồng bằng sông Hồng làng là những cộng đồng khép kín, có hàng rào tre bao bọc. Dân làng gắn bó với nhau chặt chẽ, và có phân biệt rõ rệt giữa người ngụ cư, ít giao thiệp trực tiếp với người ngoài. Tỷ lệ ruộng công còn lại tương đối cao. Sản xuất chủ yếu là để tự túc. Tinh thần cộng đồng cao tuân theo các lệ làng chặt chẽ với nhiều thể chế bảo đảm công bằng xã hội. Trong lúc ở đồng bằng sông Cửu Long làng xã là các cộng đồng tổ chức mở dọc theo các con kênh, lỏng lẻo do người tứ xứ đến khai hoang lập ra, ranh giới không rõ ràng. Ruộng đất phần lớn là của tư nhân, bị địa chủ chiếm hữu và tỷ lệ nông dân không đất, làm rẽ cao. Sản xuất hàng hoá là chủ yếu, giao thiệp nhiều với tư thương. Do đấy tinh thần cộng đồng cũng không cao nhưng lại năng động trong việc tiếp thu cái mới.
Một trong những yếu tố bảo đảm tinh thần cộng đồng là việc có ruộng công nhiều hay ít. Trong lịch sử Việt Nam có hai quá trình xảy ra song song: việc tư hữu hoá ruộng đất và việc cố gắng duy trì ruộng công do nhiều triều đại thực hiện. Năm 1930 tỷ lệ ruộng công còn 21% ở Bắc Kỳ, 25% ở Trung Kỳ và 3% ở Nam Kỳ. Ở miền Bắc tỷ lệ ruộng công thay đổi tuỳ từng vùng. Ở miền Tây Bắc, khu vực cư trú của người Thái và Mường, toàn bộ ruộng đất là của công. Tỷ lệ này cao ở vùng hạ châu thổ như Thái Bình và Nam Định. Tiến lên miền Trung du tỷ lệ này giảm dần. Ở một số tỉnh số làng tỷ lệ ruộng công còn rất cao (64,3% ở Hải Dương, 51,5% ở Bắc Ninh). Giáp là thể chế của làng xã để bảo đảm việc chia ruộng công cho công bằng.
Hiện nay ở nông thôn Việt Nam đang hình thành các thể chế mới: Nhà nước đang rút lui khỏi nhiều hoạt động với sự xoá bỏ bao cấp và phá sản của doanh nghiệp nhà nước. Khu vực tư doanh đang phát triển ở các lĩnh vực dịch vụ, thương nghiệp và công nghiệp nông thôn trong một thị trường chưa hoàn chỉnh. Nhưng lại đang thiếu các hành động tập thể để hỗ trợ kinh tế hộ nông dân. Do vậy mà ở một số vùng đang hình thành nhiều tổ chức nông dân để tự thực hiện lấy các dịch vụ mà Nhà nước và thị trường không cung cấp được cho nông dân. Hợp tác kiểu cũ đang đổi mới một cách khó khăn (10-20% HTX đang đổi mới). Hợp tác xã kiểu mới đang xuất hiện nay phần nhiều chưa có quy chế thực đúng với bản chất đúng đắn của loại hình tổ chức kinh tế mang tính xã hội. Quá trình sắp xếp lại thể chế đang xảy ra ở nông thôn dưới ảnh hưởng rất lớn của tinh thần cộng đồng làng xã cổ truyền.
Gần đây trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta đang xuất hiện các thể chế mới nhưng lại bắt nguồn từ các thể chế truyền thống. Có ai chú ý rằng ở Hà Nội và các thành phố lớn của nước ta, các hiệu buôn một mặt hàng lại thường tập trung ở một phố. Ở Hà Nội trước đây có 36 phố phường, hiện nay xuất hiện các phố bán xe đạp, xe máy, hàng điện tử, vải, may mặc, đồ nhựa, đồ điện... Ở nông thôn các hoạt động sản xuất, buôn bán một mặt hàng thường tập trung trong các làng nghề. Các làng nghề năng động đang phát triển sang các làng bên cạnh, hợp thành các cụm công nghiệp
Làng nghề và phố nghề xuất hiện từ các phường hội, một thể chế tổ chức các ngành nghề phi nông nghiệp đã có ở nước ta từ lâu. Thường các người thợ thủ công hay buôn bán cùng một nghề tập trung lại một nơi, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Họ không cạnh tranh vơi nhau là trái lại hợp tác với nhau.
Từ thế kỷ 13 dưới thời nhà Trần, Thăng Long có 61 phường. Sang đến đời Lê rút xuống còn 36 phường. Mỗi một phường, như một làng nhỏ, làm một nghề hay buôn một mặt hàng. Năm 1749 Kẻ Chợ có 8 chợ ở 8 cửa ô. Mỗi phường, sau này biến thành phố, ở Kẻ Chợ thường liên hệ với một vài làng nghề ở châu thổ sông Hồng như Hàng Bạc gồm thợ đúc tiền gốc ở Châu Khê (Hải Dương), sau này có thêm người từ Định Công (Hà Đông) và Đông Sâm (Thái Bình). Các làng này vẫn cung cấp bán thành phẩm cho các xưởng - cửa hàng ở đô thị. Phường Ngũ Xã được thành lập từ thợ thủ công của 5 làng nghề đúc đồng Hưng Yên và Bắc Ninh, sau đấy cùng với hàng Đông quan hệ chủ yếu với làng nghề ở làng Đại Bái (Bắc Ninh). Phố Hàng Đào do người ở làng Đan Loan (Hải Dương), có nghề nhuộm màu đỏ, lập nên. Hàng Khay gốc ở Chương Mỹ (Hà Tây), Hàng Quạt – Đào Xá (Hưng Yên)...
Ở nông thôn, nông dân thường lựa chọn cho mình một nghề nhất định với một vài loại sản phẩm điển hình và được truyền từ đời này qua đời khác, trở thành các làng nghề “truyền thống”. Sản phẩm của họ gắn với tên làng tên xã như: gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), khảm trai Chương Mỹ, lụa Vạn Phúc (hà Tây), gò đồng Đại Bái (Bắc Ninh), giấy dó Yên Thái (Hà Nội), Phong Khê Bắc Ninh), đúc bạc Châu Khê (Hải Dương)... Hiện nay các làng nghề đang thay đổi một cách năng động: các nghề truyền thống có đầu ra được giữ lại, cải tiến, công nghệ thủ công dần dần được thay thế bằng công cụ cải tiến và trang bị cơ khí, công nghệ hiện đại. Nhiều nơi đã hình thành nên các cụm công nghiệp phát triển từ các làng nghề, thu hút cả hoạt động của nhiều làng khác trong vùng. Mô hình cụm công nghiệp đã lan sang sản xuất nông nghiệp, hình thành các cụm công nghiệp.
Chú ý là khái niệm cụm công nghiệp chúng tôi dùng ở đây là một mô hình tổ chức sản xuất mới bao gồm các xí nghiệp và hộ kinh doanh của nhiều làng khác nhau, chứ không phải để chỉ các khu vực đất đai mà làng nghề di chuyển ra khỏi các khu dân cư để phát triển.
Nhiều cụm công nghiệp lớn, năng động nhất đã được hình thành như: cụm đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Từ Sơn, Bắc Ninh), cụm sắt, thép Châu Khê (Từ Sơn, Bắc Ninh), cụm giấy Phong Khê (Yên Phong, Bắc Ninh), cụm chế biến nông sản Hoài Đức (Hà Tây), cụm gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) cụm nghề dệt kim La Phù (Hoài Đức, Hà Tây)... Các cụm công nghiệp này xuất phát từ một làng nghề năng động, lôi kéo nhiều làng xung quanh tạo thành một mạng lưới hợp tác hỗ trợ, cạnh tranh để cung cấp dịch vụ, phổ biến óc kinh doanh công nghệ mới, tiếp xúc thị trường, trao đổi thông tin... tạo việc làm cho nông dân trong vùng. Từ các cụm công nghiệp này đang hình thành các xí nghiệp nhỏ từ các hộ nông dân, phát triển óc doanh nghiệp ở nông thôn.
Xung quanh Hà Nội đã hình thành một vành đai sản xuất nông nghiệp rất năng động, tạo nên các cụm nông nghiệp như các cụm sản xuất rau ở Gia Lộc, Tứ Kỳ, Bắc Ninh. Mê Linh, Vĩnh Tường, Đông Anh... cụm sản xuất khoai tây ở Quế Võ, cụm cây cảnh ở Văn Giang, Gia Lộc, cụm thịt lợn hướng nạc ở Nam Sách, cụm nuôi ba ba ở Kim Thành, Kinh Môn...
Các cụm này đã tập trung nhiều xã để sản xuất dưới sự phối hợp của một số nông dân năng động làm dịch vụ sản xuất và tiêu thụ nông sản, cung cấp cho nhu cầu các thành phố, chuyển đi miền Nam và xuất khẩu.
Vấn đề Cụm công nghiệp được nêu lên từ cuối các năm 1970 trong các bài của các nhà kinh tế Italia (G.Becattini, 1977) quan sát sự công nghiệp hoá của tam giác Milan – Turin – Gênes ở miền Bắc Italia so với miền nam Italia kém phát triển. Kiểu tổ chức sản xuất của vùng này là một hệ thống cạnh tranh – thi đua - hợp tác của các xí nghiệp nhỏ và vừa như kiểu “khu công nghiệp” (district industrie) của A. Marshall.
Ở Mỹ bang Califonia có các cụm công nghiệp hình thành do sự phân công lao động và hiệu ứng cụm lại (agglomeration effect). Quan trọng nhất ở đây là các cụm điện tử Thung lũng Silicon ( Silicon valley) và Quận Cam (Orange country).
Ở các nước đang xuất hiện nhiều cụm công nghiệp công nghệ cao. Ở các nước đang phát triển xuất hiện các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, trở thành một mô hình sản xuất rất năng động như các cụm sản xuất giày ở Rio Grande del Sud. Braxin và Gamarra, Peru, cụm dệt ở Lima, Peru, cụm giày cấp cao ở Đài Loan, cụm gỗ-dệt-cơ khí ở Sânt Catarina, Braxin.
Nhân tố quan trọng nhất tạo nên các cụm công nghiệp là sự hợp tác, cộng sự, dựa trên chữ tín. Chữ tín đã tạo nên các thể chế hợp tác, tôn trọng hợp đồng. Trong khoa học xã hội người ta gọi là vốn xã hội. Đây là văn hoá truyền thống trong kinh doanh của nước ta. Các cụm công nghiệp hiện nay đang nằm trong khu vực kinh tế phi hình thức, hay là nền kinh tế ngầm, ít được nhà nước hỗ trợ, ít đóng thuế.
Ở phương Đông vốn xã hội bắt nguồn từ Quan hệ, Trung Quốc gọi là Guanxi, Nhật Bản gọi là Kankei, Hàn Quốc gọi là Kwankye. Người Việt coi trọng các quan hệ không khác gì người Trung Quốc. Ngay trong thời kỳ bao cấp đã có sự phân kiểu quan hệ như sau: Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế. Nghĩa là: thân là quan hệ giữa họ hàng, bè bạn, thế là quan hệ do quà biếu, ân huệ, hội hè tạo nên, quyền là quan hệ do quyền lực tạo nên và chế là quan hệ do thể chế quy định. Hai kiểu quan hệ đầu là quan hệ của vốn xã hội.
Tuy vậy người Việt Nam không biết sử dụng vốn xã hội rất quý báu ấy vào sự phát triển. Lấy thí dụ cụm công nghiệp gốm Bát Tràng đã phát triển nghề cho 6 xã trong vùng, tạo việc làm cho nhiều xã khác xung quanh, nhưng không biết đoàn kết, hợp tác với nhau để tìm đầu ra, cải tiến công nghệ và mặt hàng. Hiện nay cụm này đang gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển vì không tìm cách làm ăn bền vững.
Các cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài không sử dụng được vốn xã hội để phát triển việc kinh doanh có hiệu quả như các cộng đồng người Hoa. Ở Trung Quốc hiện nay đang sử dụng hiệu ứng cụm công nghiệp để thúc đẩy sự phát triển công nghiệp và nông nghiệp rất năng động. Ngoài các cụm công nghiệp truyền thống còn có cả cụm công nghiệp trong các khu chế xuất và đầu tư nước ngoài lôi kéo cả các vùng nông thôn xung quanh vào hoạt động công nghiệp và xuất khẩu theo hình thức gia công. Chính nhờ hiệu ứng này mà hàng hoá Trung Quốc rẻ hơn ở nước ta. Cụm công nghiệp đang trở thành một phương thức sản xuất mới sử dụng sự hợp tác giữa các xí nghiệp vừa và nhỏ thay cho mô hình xí nghiệp lớn, với các công ty mẹ công ty con, với các bộ máy quản lý cồng kềnh. Đó là mô hình tổ chức công nghiệp sau Ford (Post Fordism).
___________
Tài liệu sách dẫn:
Becattini G., Le district Marshallien une notion socio - Économique, in Benko G.
Lipetz A., Les régions qui gagnent, PUF, Paris, 1992.
Breman J., The Shattered Image: Construction and Deconstruction of the Village in Colonial Asia, Forris Publication, 1988.
Schultz T. W., Transforming traditional agriculture, Yale University Press, New Haven , 1964.
Tchayanow A.V., The theory of Peasant Economy, Universityof Wisconsin Press, Madison 1925, 1986.
Nguồn: T/c Xưa & Nay, số 269, 10/2006, tr 8